xã hội tri thức

Giáo án lớp 1 môn Tự nhiên xã hội. Giáo án môn Tự nhiên và xã hội lớp 1 bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống là tài liệu được biên soạn theo quy định dành cho các thầy cô tham khảo, lên kế hoạch giảng dạy cụ thể, chuẩn bị hiệu quả cho các Bài giảng lớp 1 môn Tự nhiên xã hội. Hướng dẫn học bài 6: Sự chuyển biến và phân hóa của xã hội nguyên thủy trang 24 sgk Lịch sử và địa lí 6. Đây là sách giáo khoa nằm trong bộ sách "Kết nối tri thức và cuộc sống" được biên soạn theo chương trình đổi mới của Bộ giáo dục. Hi vọng, với cách hướng dẫn cụ thể và giải chi tiết học sinh Trí Thức & Công Luận Online - Cập nhật những tin tức mới nhất cho bạn đọc về các chủ đề kinh tế, văn hóa, xã hội, công nghệ, khoa học, pháp luật 24h qua Tri thức hay kiến thức (tiếng Anh: knowledge) bao gồm những kiến thức, thông tin, sự hiểu biết, hay kỹ năng có được nhờ trải nghiệm,thông qua giáo dục hay tự học hỏi. với một số học giả nghi ngờ về tác động của nó đối với xã hội. Nữ trí thức Yên Bái giữ vững vị thế xã hội. YênBái - Những năm qua, phụ nữ các dân tộc tỉnh Yên Bái luôn phát huy tinh thần đoàn kết, năng động, sáng tạo, góp phần quan trọng xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, giữ vững an ninh chính trị, trật Mann Mit 3 Kindern Sucht Frau. Chắc hẳn ngay từ khi còn nhỏ chúng ta đều đã được khuyên rằng hãy luôn tích lũy thật nhiều tri thức để đạt được thành công, ước mơ, giúp ích cho xã hội… Tri thức có thực sự là tấm vé vạn năng hay không? Hãy cùng tìm hiểu tri thức là gì và vai trò của chúng trong bài viết sau đây nhé! Tri thức hay trí thức là tổng hợp dữ liệu, thông tin, kỹ năng… mà con người có được thông qua trải nghiệm thực tế thực hành hoặc học tập lý thuyết. Tri thức hay trí thức được tích lũy qua thực tế và học tập Người tri thức là người lao động trí óc, có học vấn, am hiểu nhiều kiến thức, là người khám phá và truyền bá tri thức theo các lĩnh vực chuyên môn nhất định. Một xã hội muốn trở nên ngày càng văn minh, tốt đẹp đòi hỏi phải có càng nhiều người tri thức đóng góp và cống hiến. Tri thức có vai trò gì trong xã hội? Tri thức là sức mạnh, con người càng am hiểu sâu rộng nhiều vấn đề, lĩnh vực thì càng dễ thực hiện được các mục tiêu, ước nguyện của bản thân. Một xã hội với nhiều con người có học vấn cao thì càng phát triển mạnh mẽ cả về chất và lượng. Con người có trí thức, nhận thức tốt sẽ có khả năng làm chủ cuộc sống, làm chủ bản thân và không ngừng học hỏi để đóng góp cho xã hội. Khi con người có tri thức cuộc sống sẽ biết cách sống theo chuẩn mực đạo đức, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của thế hệ đi trước để lại. Tri thức cộng đồng được hình thành chính là nhờ sự tiếp thu và học hỏi qua bao thế hệ, tạo nên một xã hội phát triển và văn minh. Hội nhập quốc tế, giao lưu, học hỏi kiến thức, sự sáng tạo và truyền thống tốt đẹp của các quốc gia khác. Tri thức là công cụ giúp giải quyết cá nhân, xã hội, đất nước vươn lên sánh ngang với các cường quốc năm châu trên thế giới. Trí thức giúp xã hội phát triển văn minh Tiêu chí để trở thành con người tri thức Hiểu được xã hội cần gì, khả năng hiện tại của bản thân để biết cần thay đổi, bổ sung kiến thức gì để đạt được kết quả tốt nhất. Cần đặt ra các mục tiêu cụ thể và bắt tay vào hành động ngay lập tức để chiếm lĩnh tri thức nhân loại. Cần phải có sức khỏe, nghị lực để làm việc và cống hiến, đặc biệt là với các bạn trẻ. Học tập là nghĩa vụ phải hoàn thành, rèn luyện kỹ năng thấu hiểu, sẻ chia và cảm thông là nền tảng phát triển tri thức khoa học. Cần phải điều chỉnh hành động của bản thân trong văn hóa giao tiếp, ứng xử và không ngừng trau dồi tri thức kinh nghiệm về cuộc sống. Mỗi người cần phải có hiểu biết sâu rộng về tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học thì mới có thể phát triển bản thân toàn diện được. Trí thức là nền tảng của xã hội Phân loại tri thức Trong quản trị tri thức thường phân chia thành 2 loại chính là tri thức ẩn và tri thức hiện. Tri thức ẩn Tacit knowledge Tri thức ẩn know-how là hiểu biết mang tính chủ quan, cảm nhận, trực giác, linh cảm, dự đoán… khó diễn tả bằng lời, khó trao đổi với người khác. Tri thức ẩn thuộc về cá nhân Đặc điểm Thuộc về cá nhân Được lưu trữ trong não bộ của con người thông qua quá trình học tập và trải nghiệm Được phát triển trong quá trình tương tác với người khác, thông qua quá trình thử nghiệm đúng – sai, thành công và thất bại Việc chia sẻ tri thức ẩn phụ thuộc vào khả năng diễn đạt và mong muốn của người sở hữu, có thể thông qua đối thoại, hội thảo, quan sát thực hành… Ví dụ Các kỹ sư muốn chế tạo dây chuyền công nghệ tự động hóa mô phỏng cách thức làm bánh, làm rượu ngon thường phải bắt đầu bằng việc trở thành thợ học việc. Sau khi tự mình lĩnh hội bí quyết cách làm tri thức ẩn của các nghệ nhân thì họ mới có thể sáng tạo ra công nghệ phù hợp. Tri thức hiện Explicit knowledge Tri thức hiện là tri thức khách quan, được lưu giữ trong các cơ sở dữ liệu, tài liệu, trang web, email,… và có thể truyền tải, chia sẻ bằng các ngôn ngữ chính thức và hệ thống. Tri thức hiện có thể mã hóa Ví dụ Đối với doanh nghiệp, tri thức hiện được thể hiện dưới dạng báo cáo, kế hoạch kinh doanh, bằng phát minh, nhãn hiệu, danh sách khách hàng… được tích lũy và lưu trữ để mọi người dễ dàng tiếp cận khi cần. Tri thức ẩn và tri thức hiện thường bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau. Nếu không có tri thức ẩn, chúng ta rất khó thậm chí không thể hiểu được tri thức hiện. Ví dụ Nếu một người không có kiến thức nền tảng về khoa học máy tính tri thức ẩn thì sẽ không thể lập trình các phần mềm, ứng dụng hiện đại dù các tài liệu này đều có sẵn trong thư viện hay cơ sở dữ liệu của tổ chức tri thức hiện. Nếu không chuyển tri thức ẩn thành tri thức hiện, chúng ta không thể thảo luận, chia sẻ và nghiên cứu trong tổ chức được. Việc phân chia trí thức giúp quy trình quản trị tri thức rõ ràng và dễ hiểu hơn. Các mô hình quản trị thường xoay quanh việc phát hiện tri thức ẩn; sắp xếp, hệ thống hóa tri thức hiện; chuyển đổi tri thức ẩn thành tri thức hiện và ngược lại. Ngoài ra, còn có một số loại tri thức khác để hỗ trợ việc xây dựng hệ thống quản trị. Tri thức cá nhân, tri thức nhóm và tri thức tổ chức Tri thức cá nhân và tri thức tổ chức là sự phát triển liên tục từ mức cá nhân lên nhóm, tổ chức và giữa các tổ chức với nhau. Tri thức cá nhân thường ở dạng tri thức ẩn, gắn liền với cảm nhận, kinh nghiệm của các cá nhân hoặc tri thức hiện mang tính cá nhân. Ví dụ, tri thức triết học về tư tưởng, quan điểm hình thành và phát triển của các sự vật, hiện tượng. Tri thức nhóm là tri thức của một nhóm nhưng không chia sẻ với tổ chức. Ví dụ, trong công ty thường có các nhóm nhỏ không chính thức hình thành tự nhiên thông qua quá trình giao tiếp và làm việc có cùng các giá trị, ngôn ngữ, hiểu biết và kỹ năng chung. Tri thức tổ chức là kết tinh tri thức của nhiều nhóm hoặc cộng đồng trong tổ chức, là toàn bộ nguồn lực tri thức mà tổ chức có thể sử dụng để phục vụ cho mục tiêu chung. Tri thức đại chúng và tri thức chuyên gia Tri thức đại chúng là tri thức chung mà tất cả cá nhân trong tổ chức, xã hội đều biết, bao gồm các hành vi theo chuẩn mực đạo đức, xã hội. Tri thức chuyên gia là tri thức ẩn, gắn liền với các chuyên gia trong tổ chức, xã hội. Khi tri thức chuyên gia được chia sẻ rộng rãi thì chuyển thành tri thức đại chúng. Trí thức chuyên gia là tài sản quý báu của tổ chức Tri thức chuyên gia là đối tượng chính trong quản trị tri thức, là mấu chốt để tạo ra lợi thế cạnh tranh và điểm khác biệt. Đối với tri thức đại chúng, cần tìm cách tái hiện trong các tài liệu để lưu trữ. Vì tri thức đại chúng có thể phổ biến với một tổ chức, nền văn hóa này, nhưng không phổ biến với các tổ chức hay nền văn hóa khác. Ví dụ, tri thức dân gian, các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, hiểu biết, kinh nghiệm… của các quốc gia trên thế giới. Tri thức thủ tục và tri thức mô tả Tri thức thủ tục liên quan đến cách giải quyết vấn đề, quy trình xử lý công việc, các thao tác, chiến lược, công thức… Ví dụ công thức làm bánh chưng, quy trình xử lý nước thải, cách giải phương trình bậc 2… Tri thức mô tả là sự khẳng định, chứng minh về một hiện tượng, sự kiện, khái niệm trong một không gian, thời gian nhất định. Ví dụ tam giác đều là tam giác có ba cạnh và ba góc bằng nhau; mặt trời mọc phía Đông và lặn phía Tây, dự báo thời tiết về nhiệt độ trong ngày… Tri thức lõi và tri thức hỗ trợ Tri thức lõi là tri thức quan trọng, không thể thiếu đối với tổ chức để đạt được mục tiêu và chiến lược đề ra. Tuy nhiên, tri thức lõi chỉ là điều kiện cần và phải có thêm tri thức khác để duy trì hiệu quả của tổ chức, đó chính là tri thức hỗ trợ. Cả hai loại tri thức này giúp tổ chức thực hiện được các mục tiêu chung. Tri thức của tổ chức thường được lưu trữ trong hệ thống online hoặc tài liệu giấy, trong các cá nhân hay các nhóm làm việc trong tổ chức như nhân viên, quản lý cấp trung và cấp cao. Trên đây là tổng hợp thông tin về khái niệm tri thức là gì. Hy vọng những chia sẻ trong bài viết trên sẽ giúp các bạn nắm được tầm quan trọng của tri thức và trí thức, hoàn thiện bản thân hơn! Nội dung Text Thuyết trình Tâm lý học xã hội Tri giác xã hội Tâm lý học xã hội Psychologie sociale Tri giác xã hội Giáo viên hướng dẫn TS. Trần Thu Hương Nhóm làm bài tập Nhóm 10 Các thành viên  Mai Linh nhóm trưởng  Nguyễn Công Huân  Trịnh Văn Tịnh  Nguyễn Duy Hiệp  Nguyễn Trung Thành Tri giác là gì?  Tri giác là một quá trình tâm lí phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của con người.  Khác với cảm giác, tri giác là một mức độ mới của nhận thức cảm tính, nó không phải là tổng thể các thuộc tính riêng lẻ, mà là một sự phản ánh sự vật, hiện tượng nói chung trong tổng hoà các thuộc tính của nó. Những đặc điểm của tri giác  Nhận thức cao hơn cảm giác  Một quá trình tâm lý giống cảm giác.  Phản ánh trực tiếp nhưng trọn vẹn sự vật dựa trên cơ sở hiểu biết kinh nghiệm.  Phản ánh cấu trúc nhất định của sự vật qua cảm giác trừu tượng.  Quá trình tích cực gắn với hoạt động của con người. Những quy luật chính của tri giác  Tính đối tượng.  Tính lựa chọn  Tính ý nghĩa tri giác có ý thức bằng cách gọi tên sự vật.  Tính ổn định.  Tính tổng giác.  Ảo giác Các loại tri giác  Tri giác không gian Hình dạng, độ lớn, vị trí chiều sâu, độ xa, phương hướng….  Tri giác thời gian Độ dài, tốc độ, liên tục….  Tri giác vận động Biến đổi sự vật trong không gian.  Tri giác con người Sự phản ánh tâm lý, từ cảm giác đến tư duy. Tri giác xã hội là gì?  Là sự cảm nhận, hiểu biết về các đối tượng xã hội như bản thân, người khác, nhóm xã hội, cộng đồng.  Sự nhận biết này phụ thuộc vào đối tượng tri giác, kinh nghiệm, mục đích nguyện vọng của chủ thể tri giác hay hoàn cảnh tri giác.  Đối tượng tri giác là một thực thể xã hội tích cực mang sắc thái tình cảm và thái độ riêng của mình. Tóm lại  Là thông qua các biểu hiện hành vi bên ngoài kết hợp với các đặc tính bên trong của sự vật để hiểu được mục đích hay phương hướng hành động của họ.  Là quá trình nhận thức được đối tượng giao tiếp bằng con đường cảm tính chủ quan, theo kinh nghiệm. Những cơ chế chi phối  Ấn tượng ban đầu.  Quy luật quy gán xã hội.  Định kiến xã hội. Ấn tượng ban đầu  Sau lần tiếp xúc ban đầu ta sẽ có ấn tượng nhất định về đối tượng của mình  Ấn tượng ban đầu hình thành ngay cả khi không chịu sự chi phối của lý trí.  Là hình ảnh tổng thể trên cơ sở nhìn nhận một cách toàn diện diện mạo, lời nói, cử chỉ, tác phong, ánh mắt. nụ cười...... Thí nghiệm của Ash Solomon-1946  Thông minh  Thông minh  Khéo léo  Khéo léo  Cần cù  Cần cù  Nồng nhiệt  Lạnh lùng  Kiên quyết  Kiên quyết  Thực tế  Thực tế  Thận trọng  Thận trọng - - Người tin tưởng vào những điều Một kẻ đua đòi thấy mình đúng đắn, muốn mọi người thành công, thông minh hiểu quan điểm của mình, chân khác người. Một kẻ tính thành khi tranh luận và mong ý toán, lãnh cảm. kiến đó được thừa nhận Cơ sở hình thành ấn tượng ban đầu  1. Theo các đặc điểm trung tâm.  2. Lý thuyết sơ đồ nhân cách ngầm ẩn.  3. Các hiệu ứng chi phối ấn tượng về người khác. Các đặc điểm trung tâm  Những đặc tính nhân cách nào đó có ý nghĩa nhất quyết định ấn tượng của ta về người khác.  Trong đời sống hàng ngày, khi nhận định lần đầu về người khác ta có thói quen chỉ căn cứ vào một vài nét tính cách nổi bật của người đó thôi. Lý thuyết sơ đồ nhân cách ngầm ẩn  Khi nhìn nhận người khác mỗi người chúng ta đều mang trong đầu sơ đồ liên hệ tính cách người đó.  Mối liên hệ này khi gặp người khác sẽ được hoạt hoá.  Phụ thuộc vào kinh nghiệm sống của cá nhân. Các hiệu ứng chi phối ấn tượng về người khác  Mô hình chỉnh lý thông tin Anderson Đtb = điểm đặc tính tốt – điểm đặc tính xấu / tính cách.  Tâm thế của chủ thể là sự định hướng sẵn của chủ thể về đối tượng, sự vật, sự việc, sự kiện. Tâm thế sẵn có với ai đó thương chi phối ấn tượng của chúng ta về người đó.  Hiệu ứng ban đầu Những thông tin đầu tiên đóng vai trò quan trọng hơn các thông tin tiếp theo. Hiệu ứng ban đầu  Thông minh  Ghen tỵ  Chăm chỉ  Ương ngạnh  Bốc đồng  Hay phê phán  Hay phê phán  Bốc đồng  Ương ngạnh  Chăm chỉ  Ghen tỵ  Thông minh - - Một người có năng lực và Thiên về ác cảm bi bị những biện hộ cho tính ương đặc tính tiêu cực trước ngạnh của mình vì người che lấp đi. đó biết mình làm gì và tin rằng điều đó đúng. Quy luật quy gán xã hội  Là cách mà con người thường dùng để nhận định người khác.  Quy gán thường mang tính chủ quan nên khó tránh khỏi sai sót.  Để tránh những sai sót đó cần nắm vững nguyên tắc quy gán. Các nguyên tắc quy gán  Tâm lý ngây thơ Chúng ta luôn có tâm lý muốn kiểm soát được những thay đổi, biến động của môi trường xung quanh.  Suy diễn tương ứng Con người thường suy diễn tương ứng với những gì họ thấy.  Suy diễn đồng biến Là suy diễn cho nguyên nhân kết quả đi kèm với nhau, nhân nào - quả ấy. Định kiến xã hội  Thái độ thường mang hàm ý xấu về đối tượng, sự vật, hiện tượng.  Hình thành trong quá trình xã hội hoá do sự giáo dục của từng gia đình hay do đặc thù của mỗi dân tộc.  Thường ngăn cản chúng ta hiểu biết chính xác về đối tượng. Tóm tắtSinh thời, Norbert Wiener, cha đẻ của Điều khiển học Cybernetics đã dự báo "Chúng ta đang làm biến đổi môi trường của ta tận gốc rễ đến mức rồi ta phải tự biến đổi chính mình để tồn tại được trong môi trường mới đó".Quả thực, mấy chục năm qua, dưới tác động của những tiến bộ vũ bão của khoa học và công nghệ, mà nổi bật là công nghệ thông tin, môi trường kinh tế và xã hội đã có những biến đổi căn bản, đang chuyển biến tới một môi trường về cơ bản là mới của nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức. Con người tạo ra môi trường đó; nhưng rồi đến lượt mình, chính sự phát triển khách quan của môi trường đó, với tất cả tính phức tạp, bất định và thường xuyên biến động của mình, lại đòi hỏi con người phải tự biến đổi để có thêm nhiều tri thức mới, nhiều năng lực trí tuệ mới khác về chất so với các năng lực cũ, nhằm giúp mình thích nghi với môi trường mới, có khả năng hành động linh hoạt trong cái phức tạp, bất định và thường xuyên biến động đó của môi trường mới. Công nghệ thông tin đang tích cực thúc đẩy hoạt động tri thức trong mọi lĩnh vực, hỗ trợ đắc lực cho con người phát huy tiềm năng trí tuệ để tồn tại và phát triển trong môi trường mới bài báo cáo, tác giả sẽ trình bày một số nhận thức khoa học về những chuyển biến nói trên, và nêu một vài suy nghĩ về việc tìm kiếm con đường hội nhập của chúng ta từ thực trạng hiện nay vào xu thế chuyển biến chung của thế giới đến một nền kinh tế và xã hội tri thức khi bước sang thế kỷ Môi trường đang thay đổi nhanh chóngSự ra đời của máy tính điện tử cùng với việc xuất hiện các khoa học về thông tin, điều khiển, hệ thống,... vào những năm giữa thế kỷ này là những mầm mống báo hiệu cho một kỹ nguyên phát triển mới của xã hội loài người, như Norbert Wiener đã dự báo "Chúng ta đang làm biến đổi môi trường của ta tận gốc rễ...". Nhưng, "biến đổi môi trường đến mức rồi ta phải tự biến đổi chính mình để tồn tại được trong môi trường mới đó" thì là một dự báo mà đương thời ít ai tính đến. Những biến đổi trong môi trường kinh tế, xã hội trên thế giới trong mấy chục năm qua, đặc biệt trong thập niên cuối cùng của thế kỷ này, đã xảy ra càng lúc vàng nhanh chóng, dồn dập, càng lúc càng đầy tính bất ngờ và không lường trước trong lĩnh vực máy tính, thực tế phát triển đã nhanh chóng vượt xa mọi dự đoán của các chuyên gia có thẩm quyền năm 1943, Thomas Watson, chủ tịch IBM, dự đoán sẽ có một thị trường thế giới với khoảng dăm bảy máy tính; năm 1949, máy tính "trong tương lai" được dự đoán sẽ còn nặng khoảng 1 tấn rưỡi' năm 1977, Ken Olson, chủ tịch và là người sáng lập DEC, còn nói "không có lý do gì để mỗi người phải có một máy tính ở nhà mình", Bill Gates vào năm 1981 còn phỏng đoán "640k là đủ cho mọi người". Và chính Bill Gates cũng thừa nhận là thực tế thay đổi nhanh hơn nhiều phỏng đoán, nhiều chuẩn mực, vì vậy, ngày nay trong công nghệ phần mềm, "chuẩn mực chính là sự thay đổi", liên tục thay đổi để cải tiến, để thích nghi với yêu cầu luôn thay đổi của thị mươi năm trước, khi máy tính điện tử đã được sử dụng ngày càng nhiều vào các lĩnh vực kinh tế xã hội, thúc đẩy cuộc "cách mạng quản lý", người ta đã bắt đầu nói đến tin học hóa xã hội và một "xã hội thông tin" trong tương lai, nhưng những điều hình dung về tương lai đó còn mang tính dự phóng; vào thập niên 80 khi lần lượt các thế hệ máy vi tính ra đời, với tốc độ tăng năng lực theo luật Moore và với khả năng cung cấp cho thị trường mỗi năm hàng triệu, hàng chục triệu rồi hàng trăm triệu máy, thì hình thù của một cơ sở hạ tầng cho "xã hội thông tin" mới bắt đầu rõ nét. Và, bước chuyển biến có ý nghĩa quyết định nhất, thuyết phục nhất, khẳng định sự xuất hiện là sự phát triển bùng nổ của mạng Internet toàn cầu với những bước đi lừng lững vào sâu mọi ngõ ngạch của đời sống con người, bất chấp mọi rào ngăn và cản Internet, nối hàng trăm triệu máy tính của người dùng, có thể truy cập đến hàng triệu nguồn cung cấp thông tin trên khắp thế giới, không còn chỉ là một phương tiện kỹ thuật đơn thuần, mà đã trở thành một môi trường mới của mọi hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa... có tác động rất lớn đến các chuyển biến nhanh chóng của đời sống con người trên khắp hành tinh chúng ta. Và đó mới chỉ là những bước đầu để khẳng định "xã hội thông tin" đã là một hiện thực. Con đường hoàn thiện nó, có những điều dự đoán được và vô số điều không dự đoán được, còn trải dài ở phía trước, hứa hẹn nhiều bất ngờ mới cho thế kỷ mà ta sắp bước vì thế, có lẽ không lấy làm lạ và vào thập niên cuối thế kỷ 20 này, trong bề bộn của những biến động chính trị và xã hội sâu sắc, những tăng trưởng thần kỳ xen lẫn những khủng hoảng của nhiều nền kinh tế, sự xuất hiện của thương mại điện tử, của xu thế toàn cầu hóa kinh tế, nổi bật lên những lời kêu gọi hấp dẫn về tương lai gần của một nền kinh tế tri thức, của một xã hội tri thức, không chỉ cho các nước giàu đã phát triển, mà là cho mọi quốc gia, những kêu gọi cùng với các khuyến nghị và cảnh báo từ các cơ quan quốc tế như Liên hiệp quốc, Ngân hàng thế đi đến những chuyển biến hiện nay, loài người đã trải qua những bước phát triển và những thử thách liên tục trong suốt con đường thế kỷ 20. Một thế kỷ của sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, của những thử thách đối với các hình thức tổ chức và quản lý xã hội, của các phát minh vĩ đại về khoa học và công nghệ, của những tiến triển trong nhận thức con người về kinh tế, xã hội và nhân văn... đã chuẩn bị cho bước chuyển biến hiện nay, được xác định là bước chuyển biến từ xã hội công nghiệp lên xã hội thông tin và tri thức. Có thể đối với một người sống trong các nước công nghiệp phát triển, từng trải nghiệm qua những chặng đường phát triển đó, thì việc chờ đón bước chuyển biến hiện nay là tự nhiên, nhưng đối với chúng ta, sống trong một nước còn chậm phát triển, chưa có điều kiện của sự trải nghiệm đó, thì những thuật ngữ như nền kinh tế thông tin, xã hội tri thức... còn là khá xa vời, và tất nhiên sẽ không khỏi ngỡ ngàng khi dòng chảy của những điều "xa với" đó bỗng ập đến lôi cuốn chúng ta đòi hội thực chất của những biến đổi cơ bản về kinh tế xã hội là gì, vai trò của "tri thức" trong quá trình biến đổi đó đã có những chuyển biến như thế nào, và đã có những tiến triển gì trong nhận thức con người về những biến đổi đó, từ đó chúng ta cần chuẩn bị gì để có thể tự tin đi vào cuộc hội nhập vì sự phát triển của đất nước và dân tộc ta? Những câu hỏi lớn và cấp bánh, tôi mong được tìm hiểu đôi phần, nhưng tất nhiên không dàm có tham vọng đưa ra câu trả lời. Với mong muốn được cùng trao đổi ý kiến, tôi xin trình bày dưới đây một số nhận thức hạn hẹp về các vấn đề nói trên, và đặc biệt về vai trò của sự phát triển Công nghệ thông tin trong các vấn đề Sự chuyển biến tới nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức1. Tri thức trong quá trình phát triển kinh tế xã hộiSự phát triển của tri thức gắn lền với lịch sử phát triển của loài người. Con người tạo ra tri thức và sử dụng tri thức để sống, để phát triển và để hoàn thiện cuộc sống của mình. Ta từng được học rằng con người cần tri thức để nhận thức thế giới và để tác động lên thế giới nhắm phát triển sản xuất làm ra của cải phục vụ cuộc sống con người. Nói gọn theo cách của Peter Drucker tri thức được dùng để sống to being, rồi tiếp đó, để làm to doing. Và đến giai đoạn phát triển hiện nay, tri thức có thêm một chức năng mới, càng ngày càng rõ nét và có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với kinh tế xã hội, đó là dùng tri thức để tạo tri thức applying knowledge to knowledge, chức năng mới này là nhân tố cơ bản làm nên bước chuyển biến tới nền kinh tế tri thức và xã hội tri xa xưa, tri thức thường được coi như của riêng của các bậc thức giả, tri thức là dấu hiệu của đời sống tinh thần, đạo đức, trí tuệ của một người; tri thức là để cho mình, để chứng tỏ phẩm giá của mình, tức là để sống, để khẳng định sự tồn tại của mình. Dù có những hiểu biết giúp con người làm ra kỹ thuật này kỹ thuật nọ, góp phần hữu ích cho cuộc sống, nhưng có lẽ do thiếu tính hệ thống và không đủ chặt chẽ về lôgich, nên chúng thường ít được tôi trọng, thậm chí không được xem là tri thức. Phải đợi đến cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp thì tri thức mới thực sự được dùng để làm, để tạo ra kỹ thuật, công nghệ, để tìm kiếm và khai thác tài nguyên, để chế tạo công cụ sản xuất, để làm ra sản phẩm...Khoa học phát triển, cung cấp các tri thức khoa học ngày càng phong phú, làm cơ sở cho các sáng chế kỹ thuật, phát triển các ngành công nghiệp, tri thức được thể hiện trong việc liên tục phát triển sức sản xuất; và về sau, vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chức năng đó còn được thể hiện ở chỗ tri thức được dùng để nghiên cứu bản thân việc làm lao động, phân tích lao động và tổ chức một cách khoa học các quá trình lao động trong sản xuất công nghiệp. Điều đó đã khởi đầu cho một cuộc "cách mạng năng xuất" trong nhiều nước công nghiệp phát triển, mà nổi bật là phương pháp nổi tiếng về quản lý khoa học các quá trình sản xuất do đề tế thị trường càng phát triển thì vai trò của hoạt động kinh doanh càng quan trọng, trong nhiều trường hợp là quan trọng hơn cả hoạt động sản xuất trực tiếp. Và vì vậy, trong nền kinh tế thị trường, ưu thế thường thuộc về các tài năng kinh doanh, đó là các tài năng biết phát hiện và tận dụng cơ hội, nắm bắt các ý tưởng mới, tổ chức và sử dụng khéo léo các nguồn lực... người ta thường kể, Edison có hàng trăm bằng sáng chế, trong đó có sáng chế nổi tiếng về sợi dây tóc của bóng đèn điện, nhưng ông ta xem phát minh lớn nhất của mình là tổ chức labo nghiên cứu như là một hình thức công nghiệp hóa việc nghiên cứu khoa học và các hoạt động trí tuệ; Rockefller trở thành ông vua dầu hỏa không phải ở tài tìm dầu mà là ở tài hiểu được nên đưa dầu ra thị trường như thế nào và làm thế nào để kiểm soát được thị trường lý kinh doanh trở thành một năng lực và phẩm chất hết sức quan trọng trong kinh tế thị trường, và ở đây, tri thức bắt đầu thực hiện một chức năng mới, không phải chỉ để sống, để làm, mà là dùng tri thức để tạo tri thức. Đó là việc dùng tri thức nhằm giúp ta tìm cách làm thế nào sử dụng có hiệu quả những tri thức vốn có và tìm thêm những tri thức mới để tạo ra giải pháp và quyết định, tức là những sản phẩm tri thức của quản Sự chuyển biến tới nền kinh tế thông tin và tri thứcNền sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường càng phát triển thì hoạt động kinh doanh và quản lý kinh doanh càng trở nên phức tạp, đòi hỏi nhiều thông tin và tri thức, và tất nhiên cũng càng có ý nghĩa quyết định. Nội dung chủ yếu của hoạt động kinh doanh là điều khiển dòng chảy của các nguồn lực để đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất có thể. Khi thị trường rộng mở. Và trong môi trường đó, các nguồn lực có tinh năng động và linh hoạt cao như nguồn vố tài chính trở thành tác nhân dễ được điều khiển và dễ mang lại những tác động quan trọng đối với kinh tế. Những biến động kinh tế trong thời gian qua đã cho ta thấy rõ việc thay đổi dòng chảy của nguồn vốn đầu tư có tác động quyết định như thế nào đến số phận của các nền kinh tế. Và như người ta thường nói, ở giai đoạn phát triển hiện nay, nền kinh tế thế giới đã được "tài chính hóa", và trong xu thố toàn cầu hóa hiện nay, thì toàn cầu hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ, mà đặc biệt là dịch vụ và toàn cầu hóa hoạt động tài chính là hai lĩnh vực quan trọng nhất và tiến triển nhanh thức tạo tri thức trong hoạt động thường xuyên, liên tục của quản lý kinh doanh đòi hỏi phải được tiến hành trên nền của các kho thông tin và dữ liệu phong phú phản ánh mọi mặt phức tạo, đa dạng và luôn biến động của thị trường. Và khác với tri thức để sống và để làm thường có ý nghĩa phổ quát và ổn định, tri thức ở đây thường đòi hỏi phải đáp ứng những nhu cầu trực tiếp, nhất thời, có tính chuyên biệt cho từng lĩnh vực, từng tình huống, và không nhất thiết phải thỏa mãn các tính chất đầy đủ, phi mâu thuẫn, không nhất thiết phải hoàn toàn chắc chắn, nhưng phải giúp cho người quản lý lấy những quyết định kịp thời để không bỏ lỡ thời cơ của công việc kinh phát triển vũ bảo của công nghệ thông tin và truyền thông trong vài thập niên gần đây đã tạo ra một môi trường tuyệt vời kích thích và thúc đẩy loại hoạt động tri thức tạo tri thức nói trên trong quản lý kinh doanh, và cũng trong nhiều hoạt động xã hội, văn hóa khác. Có thể nói, công nghệ thông tin và truyền thông đã làm thay đổ bản chất vai trò của thông tin và tri thức từ chỗ là tiềm năng trở thành hiện thực, từ vị trí thụ động chuyển thành một sức mạnh chủ động sáng tạo nên sự giàu có của xã hội. Chính nhờ sự lớn mạnh và phổ biến nhanh chóng của các công nghệ đó mà các nguồn thông tin, dữ liệu được thu thập, tổ chức rộng khắp, truyền đưa vào trao đổi gần như tức thời, được xử lý nhanh chóng, được khai phá và tinh luyện thành tri thức cần thiết... để kịp thời giúp cho người quản lý có được những quyết định đúng nghệ thông tin có tác động to lớn đến các ngành kinh tế, đem đến cho các ngành kinh tế sức mạnh chủ động của thông tin và tri thức, và đồng thời, bản thân nó cũng là một ngành kinh tế tri thức phát triển hết sức nhanh chóng; có thể nói đó là ngành kinh tế tri thức giữ vai trò chủ đạo trong việc chuyển biến nền kinh tế thế giới hiện nay sang nền kinh tế tri thức. Các sản phẩm của công nghệ thông tin như máy tính, các thiết bị truyền thông, các loại phần mềm, chứa trong chúng biết bao tri thức phong phú đã được tích lũy, để từ đó giúp con người tạo ra tri thức mới, và làm cho tri thức có hiệu quả trng đời sống. Và vì vậy, ngoài ý nghĩa của tri thức trong quản lý kinh doanh như trình bày ở trên, ý nghĩa củ "tri thức tạo tri thức" còn được thể hiện rõ ràng trong chính các sản phẩm của công nghệ thông Nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức trong tương laiTa đã nói đến những tiến triển của vai trò tri thức trong quá trình phát triển kinh tế xã hội loài người, và sữ chuyển biến hiện nay sang một nền kinh tế và xã hội mà thông tin và tri thức là nguồn lực có vị trí chủ đạo. Nhưng, nền kinh tế thông tin, xã hội tri thức mới ở bước đầu khẳng định sự hiện hữu. Trong tương lai, nền kinh tế đó, xã hội đó sẽ có hình thù như thế nào, khó mà tiên đoán được đầy đủ, nhất là trong một môi trường kinh tế xã hội càng ngày càng lắm đổi thay và biến động. Tuy nhiên, dù không vẽ một bức tranh tương lai để ngắm, thì con người vẫn phải dự tính và chuẩn bị cho những yêu cầu của các dự tính đó. Mà nói cho cùng thì tương lai sẽ ra sao chính là phụ thuộc vào những dự tính ngắn hạn cùng những thành công và thất bại của những dự tính đó. Trên ý nghĩa đó, khắp thế giới, từ các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Tây Âu, đến các nước đang phát triển, đều tùy theo trình độ phát triển mà có những chính sách, biện pháp nhằm xây dựng cơ sở cho nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức của vực kinh tế thông tin và tri thức là khu vực năng động nhất trong nền kinh tế của nhiều nước, đặc biệt ở các nước phát vực này bao gồmCác hoạt động kinh tế xã hội và sản xuất công nghiệp có sử dụng các dịch vụ thông tin và truyền thông;Công nghiệp nội dung content industries, mà sản phẩm là nội dung thông tin và tri thức của mọi ngành kinh tế, khoa học, văn hóa, nghệ thuật... được tổ chức, ghi chữ bằng các phương tiện cùa công nghệ thông tin như đĩa từ, CD ROM;Bản thân các ngành công nghiệp tin học và truyền thông, làm ra máy tính và phần mềm, các dịch vụ liên quan đến máy tính, các thiết bị và dịch vụ viễn thông, các linh kiện vi điện tử, các thiết bị văn phòng vực này chiếm một tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế, có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn bất kỳ khu vực nào khác, và cũng tạo thêm được nhiều việc làm nhất. Theo số liệu của các nước trong Cộng đồng châu Âu EU thì các doanh nghiệp và người tiêu thụ của EU trong năm 1997 đã chi tiêu cho các sản phẩm và dịch vụ của khu vực này nhiều hơn cho các khu vực ôtô, sắt thép và hàng không cộng lại. Từ năm 1995 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP trong khu vực kinh tế thông tin này dao động trong khoảng 7,5 - 9%, trong khi tốc độ tăng trưởng GDP nói chúng là 2-3%; tốc độ tăng việc làm của khu vực này trong năm 1996 và 1997 là 7% và 8,8%, trong khi đối với toàn nền kinh tế nói chung là 0,5% và 0,6%. Việc sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tin học và truyền thông ngày càng phổ số liệu 1998 tại Mỹ cứ 100 lao động "cổ trắng" thì có 103 máy vi tính và cứ 100 dân thì có 46 máy vi tính. Các con số tương ứng này ở EU là 78 và 33. Số người dùng mạng Internet hiện nay đã vượt quá 200 triệu và vẫn tăng với tốc độ hàm mũ, thương mại điện tử mới bùng nổ vài ba năm gần đây, năm 1998 đạt doanh số 30 tỷ USD, ước tính đến 2002 sẽ đạt hơn 300 tỷ và đến 2005 sẽ đạt 1000 tỷ! Ta chú ý rằng khu vực kinh tế thông tin cũng là khu vực sản sinh ra những doanh nhân giàu có nhất thế giới; đến năm 1995, tại Mỹ, trong số 20 người giàu nhất nước có đến 14 doanh nhân trong khu vực này, đứng đầu là Bill Gates, sau đó là những tên tuổi nổi tiếng như P. Allen, chính sách và biện pháp nhằm tích cực chuẩn bị cho việc phát triển nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức ở các nước tuy có những điểm khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển của mình, nhưng cũng có nhiều điểm chung có thể xem như những yêu cầu cơ bản của kinh tế và xã hội tri thức, đó là xây dựng một kết cấu hạ tầng thông tin vững chắc và phong phú trên cơ sở phát triển mạng các xa lộ thông tin và tham gia Internet; phát triển một văn hóa kinh doanh mới dựa trên công nghệ thông tin và tri thức để tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; đào tạo lại lao động và tạo việc làm; cải tổ hệ thống giáo dục và phổ cập việc học, học liên tục, học suốt đời cho mọi người; phát triển các ngành công nghiệp nội dung; đẩy mạnh và liên tục cải cách tổ chức, Trong chính sách của nhiều nước, cũng đã đề cập đến vai trò quan trọng có tính chất đi đầu và nêu gương của các cơ quan nhà nước và khu vực công cộng trong quá trình chuyển biến sang một xã hội tri Những vấn đề mới nảy sinh của kinh tế và xã hội tri thứcThông tin và tri thức đang nhanh chóng trở thành nguồn lực chủ đạo của các nền kinh tế phát triển. Trong nhiều ngành công nghiệp, tri thức đang thay thế vốn, tài nguyên và lao động với tư cách là nhân tố cạnh tranh có tính quyết định. Tri thức chấm sâu vào mọi mặt của quá trình tổ chức và quản lý, từ việc thiết kế đến sản xuất sản phẩm, từ việc tìm hiểu nhu cầu khách hàng đến năng lực phán đoán và hành động mau lẹ để chớp lấy những cơ hội mới của kinh doanh... Công nghệ thông tin và truyền thông đã giúp thông tin và tri thức phát huy được những mặt mạnh của mình con người thâm nhập tới mọi nguồn tri thức một cách dễ dàng và kịp thời; tạo ra nhiều cơ hội hợp tác vượt qua các giới hạn về không gian, thời gian và khác biệt văn hóa; làm tăng giá trị của các nguồn tri thức do được nhân bản, cung cấp và trao đổi thuận tiện... Thông tin và tri thức còn có một thuộc tính cơ bản là nói chúng, sau khi sử dụng không những không mất đi mà càng sử dụng càng được hoàn thiện để tăng thêm giá các thuộc tính nói trên của thông tin và tri thức, các nguồn lực này có thể mang lại những "tỷ suất lợi nhuận tăng" increasing returns cho các ngành kinh tế tri thức, và đồng thời với tính năng động, dễ đổi thay và biế động của mình, chúng cũng có thể mang lại nhiều đổi thay và biến động cho đời sống kinh tế. "Tài chính hóa", kinh tế, rồi tiếp thêm "tri thức hóa" kinh tế, nền kinh tế thị trường tiếp nhận liên tiếp những tác nhân chủ đạo dễ gây những thay đổi và biến động, làm cho nền kinh tế và xã hội từ nay càng trở nên có nhiều khả năng biến động hơn, có nhiều tính bất định hơn. Phát triển và tiến bộ không ngừng trong bất định và biến động liên tiếp, phải chăng đó là một xu thế của kinh tế, xã hội trong hiện tại và tương lai?Con đường tiến đến kinh tế thông tin và xã hội tri thức tất nhiên không phải toàn những điều tốt đẹp. Nhiều vấn đề xã hội mới sẽ nảy sinh, nhiều mâu thuẫn trong nội bộ từng quốc gia và trong quan hệ quốc tế sẽ đòi hỏi được giải quyết. Xã hội tri thức hy vọng sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, nhưng chắc không thể cho mọi người những năng lực ngang nhau. Hiện nay, ở nhiều nước phát triển, lực lượng lao động trong các khu vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp chỉ còn dưới 30%, còn hơn 70% là trong các khu vực thông tin và dịch vụ. Có thể hình dung tương lai, đại đa số lao động xã hội sẽ làm việc trong hai khu vực thông tin và dịch chất tri thức trong hai loại lao động đó có khác nhau, và từ đó có nảy sinh những xung đột mới giữa các giai tầng khác nhau của xã hội. Con đường tiến đến kinh tế tri thức và xã hội tri thức cũng không phải đồng đều cho mọi nước. Các nước chậm phát triển có thể dễ mua được máy vi tính rẻ tiền, nhưng làm sao chó thể mau chóng có năng lực và trình độ nhảy vọt, vượt qua giai đoạn? Các nước phát triển thúc giục toàn cầu hóa thương mại, nhưng toàn cầu hóa ngay trong khi quá chênh lệch trình độ phải chăng sẽ dẫn đến một tình trạng bất bình đẳng trầm trọng mới. Nhiều nhà khoa học, kinh tế và xã hội đã đề xuất kiến nghị cần xem xét việc thiết lập những quan hệ toàn cầu về xã hội song song với quá trình toàn cầu hóa kinh tế, nhưng quan hệ như thế nào là công bằng, và cơ chế nào buộc được mọi nước phải chấp nhận?Norbert Wiener 1894 - 1964 là một nhà toán học và triết học Mỹ, người lập nên ngành khoa học - điều khiển Nhận thức về một nền kinh tế và xã hội đang biến đổi1. Một lý thuyết kinh tế mới cho kinh tế tri thức?Dù mới là những bước đầu, nhưng nền kinh tế thế giới đã chuyển biến sang một giai đoạn phát triển mới, có những khác biệt rõ ràng về chất so với các giai đoạn trước. Thông tin và tri thức trở thành một nguồn lực chủ đạo của phát triển kinh tế, nhưng nguồn lực đó vận hành như thế nào, ta chưa hiểu được đầy đủ; một lý thuyết kinh tế đặt tri thức vào vị trí trung tâm của quá trình tạo ra của cải có khả năng giải thích mọi hiện tượng mới lại trong đời sống kinh tế là cần thiết, nhưng ta chưa có đủ kinh nghiệm để hình thành một lý thuyết như vậy. Ta chỉ biết rằng một lý thuyết như vậy, nếu có, chắc phải khác nhiều với những lý thuyết đã có, cổ điển hay tân-cổ điển, Keynes hay tân Keynes. Các giả thiết thường được dùng trong các lý thuyết đã có như giả thiết về cạnh tranh hoàn toàn và đầy đủ, giả thiết về trọng cung hay trọng cầu... khó thích hợp để làm căn cứ cho lý thuyết có một mẫu số chung cho các loại tri thức khác nhau để có thể hình dung một cách đánh giá định lượng tri thức, do đó một mô hình toán học cho kinh tế tri thức còn là một điều xa vời. Làm thế nào để đánh giá được tác động và hiệu quả của tri thức trong những cải cách và đổi mới, và nói chung đánh giá được năng suất của tri thức, trong khi chi phí đầu tư cho tri thức ở các nước phát triển đã lên đến khoảng 20% GDP hàng năm? Trong sách Rethinkinh the Future, xuất bản năm 1997, hàng chục nhà khoa học hàng đầu ở Mỹ đã thảo luận về hàng loạt vấn đề cần được tư duy lại cho tương lai, tập trung quanh 3 chủ đề lớnCon đường cũ dừng ở đây, tương lai không phải là sự tiếp tục của quá khứ, thế giới đã thay đổi và kiểu tư duy tuyến tính không còn thích hợp với một thế giới phi tuyến;Thời mới đòi hỏi những cách tổ chức mới, người thắng cuộc trong thế kỷ 21 sẽ là những người có năng lực biến tổ chức của mình thành một cái gì đó linh hoạt như chiếc xe jeep, có khả năng phản ứng nhanh, chuyển hướng nhanh trong một miền đất đầy trắc trở và bất định;Rồi chúng ta sẽ đi đâu? Ta cần có một tầm nhìn, một định hướng mục tiêu về tương lai, nhưng không phải bằng cách nhìn vào một bản đồ có sẵn. Không có bản đồ nào cho miền đất chưa khám phá; thay vào đó những người đi đầu sẽ nhìn về phía trước, sáng tạo những ý tưởng mới, phát hiện những chân trời mới, vạch đường để hấp dẫn mọi người cùng duy lại trên cơ sở các phương pháp khoa học, nhưng phải là kiểu tư duy khoa học có đổi mới. Phương pháp khoa học truyền thống xem mục đích của khoa học là phát hiện chân lý, tìm kiến các qui luật để giải thích, dự đoán và điều khiển các sự kiện. Nhưng thế nào là đúng, là sai trong thế giới phức tạp của tự nhiên, của kinh tế, xã hội? Và phải chăn là hợp lý hơn nếu xem mọi lý thuyết khoa học đều có thể sai, khoa học không đi tìm cái luôn luôn đúng, mà tìm kiến các tri thức được hoàn thiện dần bằng phương pháp "thử và sai", giả thuyết và bác bỏ; mục đích của khoa học là "giải bài toán", tức là cung cấp những lời giải chấp nhận được cho những vấn đề mà con người quan Một vài cách tiếp cận tìm hiểu kinh tế và xã hội tri thứcCác hệ thống kinh tế xã hội vốn đã là những hệ thống lớn, phức tạp; hiện nay khi chuyển sang giai đoạn của kinh tế tri thức và xã hội tri thức, chúng lạu càng trở nên phức tạp hơn bội phần do tác động to lớn củanhững yếu tố thường xuyên biến động và bất định. Các lý thuyết trước đây thường tìm cách đơn giản hóa bằng các giả thuyết qui hành vi của hệ thống về các quan hệ giữa một số thành phần chủ yếu đã lược bỏ tính bất định, rồi từ đó thiết lập các mô hình, và từ nghiên cứu, phân tích trên các mô hình mà rút ra các nhận định, phán đoán, kiến nghị... Nhiều mô hình lý thuyết về kinh tế trước đây được xây dựng trên các giả thuyết về cân đối chẳng hạn cân đối cung - cầu đã là căn cứ cho việc lập kế hoạch, điều tiết thị trường Việc bỏ qua các yếu tố bất định trong một chừng mực nào đó là có thể chấp nhận để có được những mô hình bất định lại trở thành chủ yếu có tác động gần đúng các hệ thống thực tế, nhưng khi cái bất định lại trở thành chủ yếu có tác động quyết định đến hành vi của hệ thống thì việc tìm kiếm các mô hình như vậy trở thành vô lý thuyết kinh tế tân - cổ điển thường giả thiết là nền kinh tế tuân theo luật "liên hệ ngược âm" để tự điều chỉnh về trạng thái cân đối. Brian Arthur nhìn thấy rằng luật liên hệ ngược âm có cùng một hiệu quả như giả thuyết kinh tế về "tỷ suất lợi nhuận giảm" diminishing returns - trong điều kiện sản xuất hàng hóa vật chất, sản xuất càng nhiều thì có xu thế lợi nhuận thu được trên mỗi đơn vị sản phẩm sẽ giảm xuống.Trong kinh tế tri thức, khi sản phẩm hàng hóa là thông tin, tri thức và các ý tưởng, thì luật tỷ suất lợi nhuận giảm trong nhiều trường hợp lại nhường chỗ cho luật "tỷ suất lợi nhuận tăng" increasing returns. Trong các doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận tăng thì cơ chế liên hệ ngược dương cũng hoạt động để củng và tăng cường những thành tựu đạt được, và do đó không trở về trạng thái ổn định của cân đối mà có xu hướng tồn tại trong trạng thài thường xuyên bất ổn định. Hệ quả của những khảo sát như vậy có thể là Trong nền kinh tế mà luật "tỷ suất lợi nhuận giảm" chi phối thì liên hệ ngược âm hoạt động, hệ thống có xu thế đi đến ổn định và cân đối, do đó có thể quản lý bằng kế hoạch hóa; ngược lại, trong nền kinh tế mà luật "tỷ suất lợi nhuận tăng" chi phối thì liên hệ ngược dương hoạt động, hệ thống phát triển thường xuyên trong bất định, bất ổn định và không cân thực tế, các nền kinh tế là những hệ thống phức tạp và phi tuyến thường bao gồm cả hai loại liên hệ ngược, âm và dương; trong những hệ thống như vậy, có thể có nhiều những trạng thái ổn định bộ phận và hệ thống thường vận động giữa những trạng thái ổn định bộ phận có một cách không ổn định và khó mà tiên đoán được. Nhưng, theo bất định, bất ổn định, mất cân đối trong các hệ thống phức tạp của tự nhiên và kinh tế xã hội không nhất thiết ohải đi đến hỗn loạn và hủy diệt, mà các hệ như vậy thường có cấu trúc và năng lực tự tổ chức một cách tự phát spontaneously self - organizing của mình. Prigogine, và sau đó, Arthur đều xem rằng nền kinh tế là một hệ thống tự tổ chức. Chú ý rằng, trong cái hệ thống lớn là nền kinh tế, bất định, không cần đối và tự tổ chức đó, có cả con người là thành viên tích cực. Vì vậy, ở đây con người không phải ngoài hệ thống để lập kế hoạch cho sự phát triển của nó, mà tham gia trực tiếp vào sự phát triển đó bằng khả năng thích nghi, năng lực sáng tạo và đổi mới của trò tham gia trực tiếp của con người với tư cách là thành viên đang tư duy thinking participant trong các hệ thống kinh tế đã được nhà tài chính và kinh tế học nổi tiếng phân tích một cách độc đáo trong lý thuyết về tính phản xạ. Sự tham gia của con người đang tư duy trong các hệ thống kinh tế và xã hội có tính chất hai chiều vừa là thụ động với tư cách người tìm hiểu và suy nghĩ về hệ thống, vừa là tích cực với tư cách người tham gia quyết định có ảnh hưởng đến hành vi và kết quả của hệ thống. Và hai tư cách đó được thực hiện đồng thời. Do là đồng thời nên thường gặp những tình huống mà con người khi suy nghĩ để làm quyết định không thể dựa vào tri thức đầy đủ và chính xác về hệ thống, đơn giản là vì chưa thể có những tri thức như vậy, tình trạng của hệ thống còn phụ thuộc vào chính quyết định của những người tham quả, vì vậy, thường khác với dự kiến, và do đó lại thêm một yếu tố bất định cho bước suy nghĩ tiếp theo. Trong những nền kinh tế chịu nhiều tác động của những yếu tố linh hoạt và nhạy cảm như tài chính, tri thức thì tính phản xạ lại càng có ý nghĩa rất quan trọng. Phản xạ xảy ra trong bất định, và chức đựng tiềm năng thường trực làm tăng tính bất định của hệ thống. Bất định, bất ổn định, nếu không được điều hòa bởi những yếu tố tự tổ chức của hệ thống thì có nguy cơ dẫn đến khủng hoảng. Vì vậy, toàn cầu hóa kinh tế hiện nay cẩn phải được đi kèm với những thỏa ước quốc tế thích hợp trong khi chưa có dấu hiệu nào sẵn sàng cho một giải pháp toàn cầu hóa xã hội tương ứng để có thể tránh đi đến khủng Vai trò và tác động của Công nghệ thông tinSự phát triển nhanh chóng và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin đã góp phần quan trọng cho việc tạo ra những nhân tố năng động mới của nền kinh tế và xã hội, và do đó, cho quá trình hình thành nền kinh tế thông tin và xã hội thông tin. Điều đó cũng có nghĩa là công nghệ thông tin đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho môi trường kinh tế xã hội của ta biến đổi "tận gốc rễ", và ta đã nhận thức được rằng đã đến lúc ta phải tự đổi chính mình để có thể tồn tại được torng môi trường mới đó. Như đã trình bày ở trên, môi trường mới đó không còn có thể coi là bất định và ổn định, ta không còn có thể điều khiển nó theo những con đường vạch sẵn; môi trường mới chứa đầy những yếu tố biến động và bất định, là không ổn định và không tiên đoán được, có độ phức tạp ngoài năng lực điều khiển của các phương pháp truyền thống. Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa là con người đánh phó mặc cho môi trường đưa phản xạ của các hệ thống kinh tế xã hội khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của sự tham gia tích cực của con người trong các hệ thống đó; hệ thống lớn, phức tạp, về tổng thể là không ổn định, nhưng không phải là không ổn định ở mọi lúc mọi nơi, như trên đã nói, hệ thống thường có những trạng thái ổn định bộ phận và nó vận động giữa các trạng thái ổn định bộ phận đó một cách không tiên đoán được. Con người không đứng ngoại để vạch cho hệ thống những mục tiêu định sẵn, những kế hoạch chung cứng nhắc, mả phải tự nhúng mình vào hệ thống, thích nghi với hệ thống, thu nhập thông tin và tri thức để đánh giá tình hình và đưa ra giải pháp hành động kể cả xác định mục tiêu và kế hoạch một cách cục bộ cho những yếu tố tạm thời ổn định, và vì mọi hiểu biết và hành động đều có thể sai, nên phải thường xuyên đánh giá lại tri thức cũ, giải pháp cũ để có thể hiểu biết mới, giải pháp mới cho tình hình đã thay vậy, luôn luôn học, có tri thức và biết dùng tri thức để tạo tri thức, có năng lực thích nghi, linh hoạt trước mọi đổi thay, có năng lực sáng tạo và đổi mới là những phẩm chất mà từng con người cũng như các tổ chức kinh tế xã hội cần phải có nếu muốn tồn tại, phát triển và có vị trí xứng đáng trong môi trường lượt mình, Công nghệ thông tin, với những thành tựu tuyệt vời đã đạt được cũng như đầy hứa hẹn trong tương lai, đang và sẽ trợ giúp đắc lực cho con người có được những năng lực nói trên. Công nghệ thông tin đã được ứng dụng rộng rãi để thiết lập các cơ sở dữ liệu và các kho thông tin phong phú trong mọi lĩnh vực, mọi cơ quan, doanh nghiệp; đang được sử dụng tích cực để trợ giúp con người trong nhiều hoạt động trí thuệ, đặc biệt trong việc tìm kiếm và phát hiện tri thức để trợ giúp quyết định trong kinh doanh và các hoạt động kinh tế, và từ chỗ cung cấp được những thông tin và trí thức kịp thời mà làm tăng khả năng của con người cũng như các tổ chức trong việc phản ứng linh hoạt, thích nghi một cách hữu cơ, và tự thay đổi trước những biến động khôn lường của môi trường. Cũng cần nói thêm một điều là trong môi trường mới, để tăng cường những năng lực nói trên, học, việc học của mọi cá nhân, mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức phải được xem là vấn đề trung tâm. Và ở vấn đề trung tâm này, công nghệ thông tin hoàn toàn có thể cung cấp những công cụ, phương pháp và phương tiện mới để thực hiện một cách sâu rộng và có hiệu Vài ý kiến về con đường hội nhập của ta1. Về chính sách quốc gia phát triển và ứng dụng Công nghệ thông tinTrên ý nghĩa đó, vào đầu những năm 90, Chính phủ đã ra một Nghị quyết quan trọng xác định Chính sách quốc gia về phát triển và ứng dụng Công nghệ thông tin, lấy mục tiêu chủ yếu là xây dựng cơ sở cho một kết cấu hạ tầng thông tin có khả năng đáp ứng các nhu cầu thông tin cho quản lý nhà nước và cho các hoạt động kinh tế xã hội, đồng thời phát triển từng bước những cơ sở cho một nền công nghiệp công nghệ thông tin của đất nước. Chính sách đó được tổ chức thực hiện thông qua một Chương trình quốc gia về Công nghệ thông tin với một hệ thống các dự án, các biện pháp. Và, trong mấy năm qua, công nghệ thông tin ở nước ta đã có những bước phát triển đáng chú ý. Tuy nhiên, vào thời điểm sắp kết thúc thập niên này nhìn lại, thì ta thấy những điều ta mong đợi cũng còn khá xa vời. Các dự án tin học hóa được thực hiện chậm chạp, chưa thể làm mầm mống cho một kết cấu hạ tầng thông tin của quốc gia, tình trạng nghèo thông tin vẫn là một yếu kém chưa được khắc phục bao nhiêu, các chính sách về đầu tư và tài chính chưa tạo được những khuyến khích cần thiết cho việc phát triển những mầm non mà ta tin rằng rất có triển vọng của công nghiệp công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghệ phần mềm, công nghệ nội dung...Nghị quyết của Chính phủ ra đời từ năm 1993, về cơ bản là đáp ứng được những nhu cầu phát triển trong thập niên 90, nhưng cũng cần được cập nhật để thích ứng với những tiến bộ mới và nhữg đòi hỏi mới. Chúng ta mong rằng sẽ có những đánh giá và phân tích nghiêm túc về những gì đã đạt được và cả những gì chưa đạt được, đồng thời sẽ có những dự tính thiết thực và những biện pháp tích cực cho tương Về những bước đường tiếp tụcQua thực tiển mấy năm phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin vừa qua, tuy nhiều điều ta mong đợi còn chưa đạt được, nhưng ta cũng nhìn thấy nhiều khả năng tiềm tàng còn chưa khai thác, nhất là nhiều năng lực to lớn của thế hệ trẻ còn chưa có điều kiện để được bồi dưỡng và phát huy. Một điều có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển công nghệ thông tin là những nhu cầu của môi trường kinh tế xã hội. Một nền kinh tế thị trường phát triển với nhiều doanh nghiệp tự do đua tranh trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh, một nền hành chính quản lý đổi mới và năng động, một hệ thống dịch vụ văn hóa, xã hội phong phú... sẽ cần đến thông tin và tri thức và cũng sẽ lớn mạnh lên nhờ có thông tin và tri thức. Vì vậy, điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là công cuộc đổi mới của ta cần tạo thuận lợi thúc đẩy việc phát triển một môi trường kinh tế xã hội như vậy để trong đó công nghệ thông tin có thể phát triển nhanh chóng. Nói đúng hơn, công nghệ thông tin vừa có thể được ứng dụng để thúc đẩy sự phát triển của một môi trường kinh tế xã hội như vậy, vừa do sự lớn mạnh của môi trường đó mà chính nó lại phát triển tiếp chuyển biến sang nền kinh tế thông tin và tri thức cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế nhanh chóng đã làm phân hóa "Thế giới thứ ba", thế giới đó không còn có ký do để được coi như một thế giới riêng tự thân nữa, mà vở ra thành 4 loại nước khác nhau loại các nước khổng lồ về dân số, loại các nước có nhiều tài nguyên dầu mỏ để xuấr khẩu, và ở hai cực là loại các nước "công nghiệp hóa mới" có khả năng hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và loại các nước có nguy cơ bị dạt ra rìa của dòng chảy. Ta không thuộc vào hai loại trước, và chắc cũng không muốn để rơi vào nền kinh tế thế giới, trong đó phát triển công nghệ thông tin và xây dựng dần các yếu tố của kinh tế thông tin và tri thức là một nhân tố quan trọng, nếu không nói là quyết với các nước đang phát triển đang phấn đấu vươn lên hội nhập vào nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức trong tương lại, Ủy Ban Khoa học và công nghệ vì Phát triển của Liên hiệp quốc khuyến nghị một số nội dung chiến lược cần được tập trung thực hiện trong chính sách phát triển công nghệ thông tin như sauHướng việc sản xuất các sản phẩm công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ thiết thực các mục tiêu xã hội và tăng ưu thế cạnh tranh cho nền kinh tế;Phát triển nguồn tài nguyên nhân lực cho các chiến lược công nghệ thông tin quốc gia bằng cách đẩy mạnh và mở rộng các hình thức học, học liên tục và học suốt đời;Cải tiến quản lý sự phát triển công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý các tổ chức vì sự phát triển quốc gia;Phát triển các mạng thông tin và kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia, và thực hiện các biện pháp để mở rộng khả năng truy cập của mọi người đến các mạng đó;Khuyến khích các nguồn đầu tư và tăng cường đầu tư tài chính từ nhà nước cho phát triển công nghệ thông tin và cho kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia;Tạo mọi khả năng để truy cập tới các nguồn tri thức khoa học và kỹ thuật trên thế giới;Theo dõi và khi có cơ hội, tham gia vào việc định "các luật chơi" quốc tế liên quan đến kinh tế tri thức toàn cầu hóa, như về kết cấu hạ tầng thông tin toàn cầu, về thương mại điện tử, về các chuẩn, về an toàn thông tin, về quyền sở hữu trí tuệ...Chắc rằng các khuyến nghị đó cũng thích hợp với hoàn cảnh của nước ta, và ta có thể tham khảo trong khi cập nhật các chính sách và kế hoạch phát triền công nghệ thông tin của ta trong giai đoạn sắp thế kỷ sắp qua, và một thế kỷ mới sắp đến. Những gì xảy ra trong thế kỷ 20 này thực tế đã khác xa với những dự đoán từ cuối thể kỷ 19. Cuộc sống đang biến đổi nhanh chóng, và thề kỷ 21 chắc sẽ còn lắm đổi thay bất ngờ, khác với những điều mà hiện nay con người tiên đoán. Nhưng không vì vậy mà ta không dự đoán tương lai. Chỉ có điều là, ta phải xem mọi dự đoán đều có thể sai, và chuẩn bị sẵn sàng những năng lực để ứng phó linh hoạt và kịp thời trước mọi đổi thay. Thích nghi, sáng tạo và đổi mới không ngừng chính là những phẩm chất và bản lĩnh mà ta cần trang bị cho mình để vửng vàng đi vào thế kỷ 21, và nói như Biil Gates, ngày nay chuẩn mực chính là sự thay đổi. Phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực, làm cho xã hội giàu có thông tin và tri thức là nhân tố có ý nghĩa quan trọng để trau dồi các phẩm chất và bản lĩnh nói trên, tạo khả năng cho đất nước ta vươn lên trong mọi biến động và thử thách, vững vàng hội nhập một cách có hiệu quả vào xã hội tri thức toàn cầu trong tương lai. Tri thức là kho tàng tri thức khổng lồ mà con người tích lũy được qua quá trình học tập, nghiên cứu. Với 11 bài Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh sẽ giúp những em học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về ý nghĩa, tác dụng của tri thức. Tri thức giúp bản thân chúng ta hoàn thiện hơn, rời xa những xấu xa, ích kỉ, nhỏ nhen tầm thường trong cuộc sống, biết yêu thương nhiều hơn. Vậy mời những em cùng theo dõi bài viết dưới đây của GrabHanoi để củng cố tri thức môn Ngữ văn 9, ôn thi vào lớp 10 hiệu thể bạn quan tâm Nghị luận về việc giữ lời hứa 9 mẫu Nghị luận về hiện tượng sống ảo 20 mẫu Nghị luận sức mạnh của sự tử tế 19 mẫu Top 10 mẫu Cảm nhận khổ 1 bài Nói với con của Y Phương hay nhất Top 8 mẫu Phân tích khổ thơ 4, 5 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải Mục lụcDàn ý nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnhDàn ý 1Dàn ý 2Dàn ý 3Đoạn văn Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnhĐoạn văn 1Đoạn văn 2Đoạn văn 3Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh ngắn gọnBài văn mẫu 1Bài văn mẫu 2Bài văn nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh chi tiếtBài văn mẫu 1Bài văn mẫu 2Bài văn mẫu 3Bài văn mẫu 4Bài văn mẫu 5Bài văn mẫu 6 Dàn ý 1 1. Mở bàiBạn Đang Xem Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh hay nhất 11 mẫu Giới thiệu vấn đề cần nghị luận tri thức là sức mạnh. Lưu ý học sinh được tự lựa chọn lựa cách dẫn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân. 2. Thân bài a. giảng giải Tri thức là kho tàng tri thức khổng lồ mà con người đã tích lũy được rất nhiều năm nay, được lưu trữ dưới dạng sách vở hoặc thông tin. Tri thức của mỗi con người là chính là những gì mà con người tích lũy được thông qua quá trình học tập, nghiên cứu. b. Phân tích Con người muốn thành công, tạo được thành tựu cho bản thân, xây dựng xã hội tốt đẹp thì chúng ta phải học tập, trau dồi tri thức. Tri thức giúp con người vươn tới những điều tưởng dường như không thể, khám phá ra những chân trời mới, những điều thú vị, kì vĩ của thiên nhiên, của vũ trụ. nếu như con người sống mà không có tri thức, không có tri thức, không có kế hoạch, mục tiêu thì sẽ thụt lùi so với xã hội và trở nên thấp kém, kéo theo đó là cuộc sống đi xuống. Tri thức là cốt lõi để xã hội này phát triển. c. Chứng minh Học sinh tự lấy dẫn chứng về những tấm gương tích cực trau dồi tri thức và khiến cho cuộc sống, xã hội tốt đẹp hơn. Lưu ý dẫn chứng phải tiêu biểu, nổi trội, được rất nhiều người biết tới. d. Phản đề Tuy nhiên, trong cuộc sống vẫn còn có rất nhiều người vẫn chưa có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của tri thức, lại có những người không nỗ lực trau dồi để hoàn thiện bản thân mình để cống hiến cho xã hội,… những người này cần bị thẳng thắn phê phán, chỉ trích. 3. Kết bài Khái quát lại vấn đề nghị luận tri thức là sức mạnh; đồng thời rút ra bài học và liên hệ bản thân. Dàn ý 2 1. Mở bàiBạn Đang Xem Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh hay nhất 11 mẫu Trong bất kì xã hội hay thời kỳ nào thì vai trò của trí thức tới vô cùng quan trọng. Đặc biệt, trong xã hội ngày nay, tri thức thực sự ngày càng khẳng định được vai trò lớn của mình đối với đời sống con người. 2. Thân bài * Khái niệm Tri thức là những hiểu biết về khoa học, văn học, lịch sử, đời sống xã hội mà con người chiếm lĩnh được. Là những hiểu biết của nhân loại được đúc kết quả hàng trăm thế kỷ phát triển từ thời xa xưa tới ngày nay. * Vai trò của tri thức trong cuộc sống – Trong quá khứ đã có biết bao hào kiệt tài năng với tài tình thao lược, võ giỏi, văn hay, tri thức sâu rộng nhờ đó mà ta lực lượng yếu vẫn thắng địch giành lại độc lập cho dân. – Ngày nay, khi quốc gia được thái bình tri thức rất cần thiết trong việc phát triển quốc gia, dân tộc Về chính trị Cần phải được xây dựng vững mạnh, ổn định, cần những người lãnh đạo có năng lực, tầm nhìn lớn. Về kinh tế Giữ vị trí số một trong phát triển nền kinh tế tri thức, đưa quốc gia sánh vai với cường quốc trên toàn cầu. Đối với xã hội, văn hoá giáo dục, tri thức cũng góp tiếng nói của mình vào sự ổn định phát triển. * Đối với bản thân mỗi người Tri thức mang lại cuộc sống đủ đầy, tăng chất lượng đời sống và sống có ích. Tri thức mang tới những chân trời mới của cuộc sống, con người khẳng định được bản thân là nhờ có tri thức. Tri thức giúp bản thân ngày càng hoàn thiện hơn, biết lựa chọn lựa những tinh hoa để tiếp nhận, rời xa những xấu xa, ích kỉ, nhỏ nhen tầm thường trong cuộc sống, biết ” gạn đục khơi trong”, biết yêu thương nhiều hơn. → Tri thức là hành trang thiết yếu mà mỗi người cần có trên phố đời. * Mở rộng Trên thực tế, ta vẫn thấy nhiều bạn trẻ chỉ miệt mài ăn chơi, học đòi mà không học hành. Chúng ta là những người trẻ, những hy vọng tương lai của nước nhà, cần hiểu được tầm quan trọng của trí thức, nỗ lực học tập thật giỏi, trau dồi, rèn luyện cả đạo đức, tri thức để phát triển toàn diện 3. Kết bài “Tri thức là sức mạnh”, hãy trau dồi tri thức để mang tới sức mạnh cho chính mình, cho quốc gia, dân tộc mình. Hãy là một vì sao nhấp nhánh tài năng, bản lĩnh và một trái tim đẹp. Dàn ý 3 I. Mở bài Dẫn dắt câu nói “Tri thức là sức mạnh” II. Thân bài * Tri thức là gì? Tri thức là hệ thống bao gồm những dữ kiện, thông tin, sự mô tả hay kỹ năng, kinh nghiệm có được nhờ trải nghiệm thực tiễn hay thông qua giáo dục. Xem Thêm Nghị luận về hút thuốc lá hay nhất 23 mẫu* Người có tri thức là người thế nào? Là người đã tích lũy được một lượng tri thức đủ lớn để làm việc và sáng tạo. * vì sao có tri thức thì có sức mạnh? Tích lũy và kế thừa tri thức theo thời gian vốn là thực chất của xã hội loài người. Không ai có thể phủ nhận sức mạnh làm thay đổi toàn cầu của tri thức. * Muốn có được sức mạnh của tri thức ta phải làm gì? Phải biết tự giác học tập. Biết sàng lọc tri thức, lựa chọn lựa cái thích hợp. Vận dụng tri thức được học vào những việc hữu ích, tạo ra lợi ích. III. Kết bài Cách tốt nhất để chúng ta có được tri thức là học tập, không có tri thức ta không có được thành công. Đoạn văn Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh Đoạn văn 1 Xã hội loài người ngày càng phát triển, thì vai trò của trí thức lại càng được tăng. Tri thức là những hiểu biết của con người và nhân loại được đúc kết qua sự phát triển từ thời xa xưa tới ngày nay. Tri thức bao gồm tất cả những khả năng, kĩ năng, hiểu biết của con người về tri thức văn hóa cũng như tự nhiên, xã hội. Tri thức có vai trò vô cùng lớn trong đời sống văn hóa xã hội. Nó tác động trực tiếp tới những ngành của kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục,… Tri thức là chất xám đưa quốc gia đi lên, sánh vai với cường quốc năm châu. Một quốc gia có người dân đạt trình độ cao về trí thức mức sống của người dân được cải thiện hơn, con người được hạnh phúc hơn. Xã hội từ đó yên bình hơn, trở nên văn minh và giàu đẹp hơn. Đối với mỗi người, tri thức lại càng cần thiết hơn bao giờ người có thành công hay không là do tri thức của mỗi người. Người có tri thức cao thì sẽ có khả năng làm việc, xử sự tốt hơn. Tri thức giúp bản thân ngày càng hoàn thiện hơn. vậy mà ngày nay vẫn còn rất nhiều người chưa hiểu được tầm quan trọng của tri thức, có lối sống ăn chơi, học đòi mà không học hành. những người này thật đáng phê phán. Tóm lại, tri thức có vai trò vô cùng lớn trong đời sống. Vì vậy mỗi chúng ta hãy trau dồi tri thức cho mình để hoàn thiện bản thân hơn nữa. Đoạn văn 2 Con người mạnh mẽ hơn những loài vật khác là bởi con người có trí tuệ. trí tuệ của con người được bồi dưỡng bởi tri thức. không có tri thức, trí tuệ con người không còn sức mạnh gì nữa. bởi vậy, bàn về vai trò của tri thức, Lênin đã từng nói “Tri thức là sức mạnh. Ai có tri thức thì người đó có được sức mạnh”. Tri thức là một cái chúng ta học qua sách vở, lý thuyết tới thực hành, từ thầy cô, cha mẹ và tất cả những cái gì liên quan tới thực tế. Tri thức thì luôn có 2 dạng là ẩn và hiện. Tất cả hoặc hầu như con người chúng ta đều có dạng tri thức là hiện – ẩn. Sức mạnh là cái tác động tới chúng ta, và nó luôn ẩn chứa trong mình ở mức cao nhất. Ở đây là dành cho những người hiểu biết, có rất nhiều tri thức, trải nghiệm trong cuộc sống. Bản thân bạn phải tự trang bị tri thức cho bản thân, nếu như có nó thì bạn có được sức mạnh. Có tri thức thì bạn có thể tự tin trong công việc, trong giao tiếp và rất nhiều ngành. Có nó thì bạn cũng có thể tự khắc phục mọi việc cho thật đúng đắn, không sai cái gì. Điều đó khiến bạn càng được mọi người tôn trọng hơn. nếu như không có tri thức thìa là một mối hiểm họa khôn lường. Mỗi người ai cũng có một cái điểm mạnh riêng, cho nên không thể lấy tri thức ra mà so sánh với nhau. Bạn cần hiểu giữa 2 mặt này của tri thức. Đừng lấy nó mà đem chê bai người khác trên mặt yếu. Chính bản thân bạn cũng cần phải tham khảo và tự cho mình một tri thức nhất định. Siêng năng đọc sách, tự giác cao trong học tập, vận dụng nó một cách hiệu quả sẽ làm cho bạn có được tri thức ở mức cao nhất. Không phải tri thức và đạo đức tự nhiên mà có. Đây là hai khía cạnh được thể hiện ở tính cách cùng với con người của bạn, nó tồn tại song song với nhau và không thể thiếu một cái trong hai thứ ấy. Cho nên, bạn phải siêng năng học tập, dành thời gian cống hiến bản thân cho lao động thay vì phương thức. Nhờ như thế thì bạn mới có được hạnh phúc. Đoạn văn 3 “Tri thức là sức mạnh, ai có tri thức người đó có sức mạnh” Lênin là một nhà tư tưởng vĩ đại, một nhà lý luận chính trị kiệt xuất. ông cũng là một vị lãnh tụ lỗi lạc của giai cấp người lao động và nhân dân lao động toàn toàn cầu. ông là một nhân vật nổi tiếng với những câu nói đi vào lịch sử nhân loại như “ học, học nữa, học mãi”. Ngoài ra, ông còn có một câu nói để lại cho lịch sử loài người về tri thức và sức mạnh, đó là “ai có tri thức người đó có sức mạnh”. Câu nói như khẳng định sức mạnh của trí thức trong cuộc sống của loài người. để hiểu rõ hơn về câu nói này của Lenin ta cùng đi phân tích thức bao gồm những dữ kiện, thông tin, sự mô tả, hay kỹ năng có được nhờ trải nghiệm hay thông qua giáo dục. tri thức còn thể hiện sự hiểu biết về một đối tượng, về mặt lý thuyết hay thực hành. Theo như tiếng việt thì “tri” và “thức” đều tức là mạnh là khả năng tác động mạnh mẽ tới những người, tới một sự vật, gây tác dụng ở mức cao. Sức mạnh ở đây không chỉ nói sức mạnh cơ bắp mà còn nói lên sức mạnh thân thể, sức mạnh ý thức, sức mạnh tình yêu. Câu nói như thể hiện những người có rất nhiều tri thức, nhiều trải nghiệm và nhiều kinh nghiệm thì người đó có sức mạnh hơn trì học tập và rèn luyện. Không ngừng học để có được tri thức và giữ gìn chúng qua thời gian. Không có tri thức thì không có thành công. Tri thức là cái khiến chúng ta nhìn thấy mình đang hiện hữu. Tri thức trong đầu và đạo đức trong tim, hai cái này phải tồn tại song song và không thể thiếu một trong hai. Bạn phải dành thời gian cống hiến để nghiên cứu và lao động thay vì phương thức và lạc thú, đó là cách để trở nên hữu dụng, và nhờ vậy, có được hạnh phúc. Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh ngắn gọn Bài văn mẫu 1 Trong bất kì xã hội hay thời kỳ nào thì vai trò của trí thức tới vô cùng quan trọng. Đặc biệt, trong xã hội ngày nay, tri thức thực sự ngày càng khẳng định được vai trò lớn của mình đối với đời sống con người. Tri thức là gì? Là những hiểu biết về khoa học, văn học, lịch sử, đời sống xã hội mà con người chiếm lĩnh được. Là những hiểu biết của nhân loại được đúc kết quả hàng trăm thế kỷ phát triển từ thời xa xưa tới ngày nay. Trong cuộc sống tri thức giữ vai trò rất quan trọng, tiêu biểu như trong lịch sử dân tộc đã có biết bao hào kiệt tài năng với tài tình thao lược, võ giỏi, văn hay, tri thức sâu rộng nhờ đó mà ta lực lượng yếu vẫn thắng địch giành lại độc lập cho dân. Ngày nay, khi quốc gia được thái bình tri thức rất cần thiết trong việc phát triển quốc gia, dân tộc. Về chính trị cần phải được xây dựng vững mạnh, ổn định, cần những người lãnh đạo có năng lực, tầm nhìn lớn. Về kinh tế thì cần phải giữ vị trí số một trong phát triển nền kinh tế tri thức, đưa quốc gia sánh vai với cường quốc trên toàn cầu. Đối với xã hội, văn hoá giáo dục, tri thức cũng góp tiếng nói của mình vào sự ổn định phát triển. Đối với bản thân mỗi người tri thức mang lại cuộc sống đủ đầy, tăng chất lượng đời sống và sống có ích. Tri thức mang tới những chân trời mới của cuộc sống, con người khẳng định được bản thân là nhờ có tri thức. Tri thức giúp bản thân ngày càng hoàn thiện hơn, biết lựa chọn lựa những tinh hoa để tiếp nhận, rời xa những xấu xa, ích kỉ, nhỏ nhen tầm thường trong cuộc sống, biết ” gạn đục khơi trong”, biết yêu thương nhiều hơn. Tri thức là hành trang thiết yếu mà mỗi người cần có trên phố đời. Trên thực tế, ta vẫn thấy nhiều bạn trẻ chỉ miệt mài ăn chơi, học đòi mà không học hành. Chúng ta là những người trẻ, những hy vọng tương lai của nước nhà, cần hiểu được tầm quan trọng của trí thức, nỗ lực học tập thật giỏi, trau dồi, rèn luyện cả đạo đức, tri thức để phát triển toàn diện. “Tri thức là sức mạnh”, hãy trau dồi tri thức để mang tới sức mạnh cho chính mình, cho quốc gia, dân tộc mình. Hãy là một vì sao nhấp nhánh tài năng, bản lĩnh và một trái tim đẹp. Bài văn mẫu 2 Ở hầu khắp mọi nơi trên toàn cầu, từ nơi khô cằn tới nơi tuyết phủ, từ trẻ nhỏ tới người già họ đều đang trên cuộc hành trình của tri thức bởi một lý do đơn thuần “ tri thức là sức mạnh”. Câu nói trên như một lời khẳng định tầm quan trọng của tri thức trong cuộc sống con người. Vậy tri thức là gì? Tri thức trước hết là những tri thức trong những ngành khác nhau mà ta được lĩnh ngộ từ giảng đường. Nhưng không chỉ vậy, tri thức còn là kết quả của quá trình tích lũy những kinh nghiệm, hiểu biết về những hiện tượng tự nhiên những vấn đề xảy ra trong cuộc sống. Vậy vì sao, tri thức lại có mối quan hệ với sức mạng – một dạng năng lực của con người? Bởi nhờ có tri thức nhân loại mới có thể hạ gục quân thù tự nhiên và làm chủ cuộc sống; tri thức cũng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển của nền văn minh nhân loại với sự ra đời của những loại máy móc. Trong chúng ta không ai mà không biết tới những nhà chưng học như Einstein, Edison hay Steven Hawking… những con người vĩ đại sử dụng vốn tri thức của mình phục vụ cho toàn xã hội. Tuy nhiên, chuyện gì cũng có hai mặt song hành và tri thức cũng vậy. nếu như tri thức là người bạn lớn lao song hành thì ngu đối lại là một thảm kịch. Đáng buồn thay trong xã hội ngày nay nhiều người vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của tri thức, họ chỉ coi việc học như một dụng cụ để tìm việc làm mà xem nhẹ việc học để có hiểu biết. Tóm lại, “tri thức là sức mạnh” là một chân lý vĩnh hằng ngày càng được chứng minh bởi thời gian. Bài văn nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh chi tiết Bài văn mẫu 1 Để có thể vững bước trên tuyến đường đời, hành trang thiết yếu nhất mà mỗi người chúng ta đều phải có đó là tri thức. Bởi cuộc sống là những điều kỳ diệu mà con người không bao giờ có thể biết hết được. Chỉ có những tri thức mới giúp chúng ta vượt qua được tất cả những điều trong cuộc sống mà bước tới thành công của chính mình. Chẳng vậy mà một nhà khoa học người Anh đã phát biểu rằng “Tri thức là sức mạnh”. Câu nói ngắn gọn nhưng đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng của tri thức. Tri thức, theo nghĩa hẹp, là tri thức tích lũy được về những ngành khác nhau của mỗi người nhờ học tập, rèn luyện và suy nghĩ. Theo nghĩa rộng, tri thức có thể hiểu là vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người,… của nhân loại nói chung. Sức mạnh của tri thức là khả năng làm thay đổi toàn cầu của tri thức thông qua sự vận dụng tri thức của con người trong những hoạt động nghiên cứu, lao động và sản xuất. Sức mạnh của tri thức còn có thể được hiểu là khả năng sáng tạo ra cái mới, cái tiến bộ, tạo động lực cho sự phát triển của xã hội. Nhờ biết tích lũy tri thức mà con người có thể hiểu được thực chất của toàn cầu khách quan, vận dụng tri thức từng bước làm chủ tự nhiên và cuộc sống của mình. Không ai có thể phủ nhận sức mạnh làm thay đổi toàn cầu của tri thức. Nhờ có tri thức mà con người có thể tách mình ra khỏi toàn cầu loài vật hoang dại trở thành loài người văn minh thông qua hệ thống chữ viết, văn hóa trong xã hội loài người. Nhờ có tri thức mà cuộc sống của con người không ngừng phát triển theo từng thời kỳ. Năm 1860 ý tưởng trước hết về chiếc điện thoại được Johann Philipp Reis nghĩ ra Vài năm sau đó, cuộc gọi trước hết được thực hiện giữa nhà phát minh Alexander Graham Bell và người trợ lý của ông ngồi cách đó 4,5 m vào ngày 10/3/1876 với mẩu hội thoại ngắn ngủi “Watson, anh tới đây nhé, tôi có việc cần!” là sự kiện lịch sử đánh dấu chính thức sự ra đời của chiếc điện thoại liên lạc .Năm 1879 lần trước hết Thomas Edison phát minh ra chiếc bóng đèn sợi đốt làm thay đổi dung mạo nhân loại, trong khi con người không phải sinh hoạt phụ thuộc vào nguồn ánh sáng tự nhiên của mặt trời nữa. Nhờ có đèn khí, năng suất lao động của thời bấy giờ cũng tăng lên đáng kể nhờ làm thêm ca đêm. Năm 1897 Thompson chính là người đã phát hiện và chứng minh được sự tồn tại của electron mặc dù ông chưa thể nhìn thấy hay tách được chúng ra. Electron là hạt hạ nguyên tử trước hết được phát hiện và được xác nhận là loại hạt trước hết cấu tạo nên vật chất nhỏ hơn cả nguyên tử. Khám phá này đã phân phối cho chúng ta chứng cớ về một đơn vị mang điện cơ bản và trình bày về nó. Những thử nghiệm và phát hiện của Thompson đã mở ra một ngành khoa học mới – Vật lý hạt. Tất cả những thành tựu đó đều nhờ vào sức mạnh vô hạn của tri thức mà có. Sức mạnh tri thức làm con người có thể xáo trộn những trật tự tưởng như nghìn năm bất dịch, làm được bao điều phi thường trong trong cuộc sống. Trải qua thời gian, bằng tri thức con người đã xây dựng một xã hội loài người văn minh, tiến bộ tột bậc. nhường nhịn như, tham vọng khuất phục hoàn toàn hoàn cảnh sống là tham vọng vô tận của con người. Chính vì vậy mà con người không bao giờ ngừng tham khảo, nghiên cứu và sáng tạo ra những tri thức mới. Mỗi người trong xã hội luôn phải tự trau dồi tri thức của bản thân thông qua hoạt động học tập. Học tập phải diễn ra đều đặn, trong tương lai và xuyên suốt thế cục người. Học tập ở mọi nơi, mọi lúc và mọi thứ cần thiết. Thực tế cũng chứng minh, những người đạt tới đỉnh cao của vinh quang đều có vốn sống, vốn hiểu biết phong phú và nhu cầu cầu thị lớn. Học tập kỹ lưỡng và thực hành tỉ mỉ là bí quyết thành công của những nhà khoa học. Mỗi lượng tri thức đều phải được kiểm chứng qua trải nghiệm thực tế mới có thể được khẳng định. Tri thức giúp chúng ta hoàn thiện mình, dũng cảm và tự tin hơn khi tham gia vào những hoạt động xã hội. Không có tri thức thì không có thành công. Chính vì vậy chính là sức mạnh giúp con người hoàn thiện bản thân cũng như hoàn thiện xã hội. Đây là một khẳng định đúng đắn và cũng là chân lý vĩnh hằng được con người khẳng định qua thời gian. Bài văn mẫu 2 Nhà văn Francis Bacon nói “Tri thức là sức mạnh”. Sau này Lênin, một nhà triết học, nhà chính trị vĩ đại đã trở thành “Tri thức là sức mạnh. Ai có tri thức người đó có sức mạnh”. Thật vậy, tri thức là hệ thống bao gồm những dữ kiện, thông tin, sự mô tả hay kỹ năng, kinh nghiệm có được nhờ trải nghiệm thực tiễn hay thông qua giáo dục. thỉnh thoảng, người ta còn sử dụng tri thức để chỉ tri thức. Thế nhưng, Tri thức có hàm nghĩa rộng lớn hơn tri thức rất nhiều. Trong triết học, ngành nghiên cứu về tri thức gọi là tri thức luận. Người có tri thức là người đã tích lũy được một lượng tri thức đủ lớn để làm việc và sáng tạo. Trong cuộc sống, người có tri thức là người có hiểu biết sâu rộng về một hoặc nhiều ngành khoa học, có khả năng sáng tạo, có tư cách cao cả, lối sống tốt đẹp và đóng góp tích cực vào sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Sức mạnh của tri thức là khả năng làm thay đổi toàn cầu của tri thức thông qua sự vận dụng tri thức của con người trong những hoạt động nghiên cứu, lao động và sản xuất. Sức mạnh của tri thức còn có thể được hiểu là khả năng sáng tạo ra cái mới, cái tiến bộ, tạo động lực cho sự phát triển của xã hội. Nhờ biết tích lũy tri thức mà con người có thể hiểu được thực chất của toàn cầu khách quan, vận dụng tri thức từng bước làm chủ tự nhiên và cuộc sống của mình. Như chúng ta đã biết, việc tích lũy và kế thừa tri thức theo thời gian vốn là thực chất của xã hội loài người. Kèm theo quá trình này là lượng tri thức ngày càng lớn hơn, khổng lồ hơn. bởi vậy những phương thức lưu trữ và truyền đạt cũng thay đổi theo mỗi thời đại. Không ai có thể phủ nhận sức mạnh làm thay đổi toàn cầu của tri thức. Từ thuở sơ khai tri thức được chạm khắc trên vách đá, xương thú, mai rùa. Khi có chữ viết, con người biết lưu giữ tri thức trên vải, trên giấy. Ngày nay, người ta đã mã hóa tri thức và lưu trữ bằng những bản điện tử. Việc lưu trữ điện tử cho phép con người lưu trữ nhanh chóng, chắc chắn và vô hạn. Bởi nó có sức mạnh nên ở bất cứ thời đại nào con người cũng nỗ lực kiếm tìm những cách lưu giữ đầy đủ nhất, chắc chắn nhất, bền lâu nhất. Con người bảo vệ tri thức như một “thanh gươm thần”, xem nó như một báu vật thiêng liêng không thể đánh rơi. Xét về sức mạnh cơ bắp, con người kém xa những loài thú ăn thịt. Xét về năng lực những giác quan khác và khả năng tự vệ, con người cũng đứng sắp cuối danh sách những loài động vật bậc cao. tức là, con người hoàn toàn có thể bị chinh phục hoặc dẫn tới diệt vong trong cuộc cạnh tranh công bằng và khốc liệt. Thế nhưng, tự nhiên luôn có sự lựa chọn lựa công bằng và loài nào biết thích ứng, biến đổi, biết tạo động lực để vươn lên sẽ thắng thế trong cuộc chạy đua tới vị trí làm chủ trái đất. Nhờ có tri thức và bằng sức mạnh của tri thức con người đã tự tách mình ra khỏi toàn cầu động vật hoang dại, trở thành loài người văn minh, làm chủ toàn bộ cuộc sống. Đó là một bước tiến vĩ đại trong lịch sử phát triển muôn loài trên trái đất. Bí quyết sống còn và không thể nào khác của loài người đó là biết tạo ra tri thức, tích lũy và vận dụng tri thức để tạo ra sức mạnh chinh phục của mình. Từ khi điều đó xảy ra trên trái đất, con người ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn, đông đảo hơn. Họ từng bước tiến sâu vào trong những khu rừng rậm, những đảo hoang, trên sa mạc, trên đại dương,…Từng bước xác lập lãnh địa và khẳng định vai trò làm chủ của mình. Thắng lợi trong công cuộc chinh phục tự nhiên là thắng lợi vĩ đại nhất của con người. Từ đó tới nay, con người không ngừng củng cố vai trò này. Tri thức còn đem tới cho con người sức mạnh duy trì, giữ gìn ổn định và phát triển những trị giá đời sống một cách vững bền dài lâu. Trải qua thời gian, bằng tri thức con người đã xây dựng một xã hội loài người văn minh, tiến bộ tột bậc. nhường nhịn như, tham vọng khuất phục hoàn toàn hoàn cảnh sống là tham vọng vô tận của con người. Từ tiện nghi tới tiện nghi hơn nữa. Từ làm chủ tới bá chủ toàn cầu. Và thực tế đã chứng minh, ngày nay, con người đã có mặt ở hầu khắp mọi nơi trên trái đất. Tất cả những thành tựu đó đều nhờ vào sức mạnh vô hạn của tri thức mà có. Chúng ta hoàn toàn có thể tự hào khi nghĩ tới Issac Newton, Darwin, Lincoln, Shakespeare, Nobel, Einstein, Bill Gates, Hồ Chí Minh,…và biết bao tên tuổi khác. Họ thực sự là những người anh hùng vĩ đại, là người lính tiên phong trong trận đụng độ đấu loại bỏ cái lạc hậu, bất công, nghèo đói, mãi mãi xứng đáng để chúng ta ngưỡng mộ và tôn kính. Sức mạnh tri thức làm con người có thể xáo trộn những trật tự tưởng như nghìn năm bất dịch, làm được bao điều phi thường trong trong cuộc sống. Thuở xa xưa, với chiếc thuyền nhỏ, con người đã dũng cảm vượt đại dương tìm vùng đất mới. Con người cũng muốn bay được như loài chim và chiếc phi cơ trước hết đã ra đời. Với những tiến bộ khoa học, con người ngày càng đi sâu vào trong toàn cầu vi mô để tìm ra những nguồn sức mạnh vô bờ ẩn tàng trong đó. Và khát vọng làm chủ hoàn toàn không gian, thời gian chưa bao giờ yên nghỉ trong khát vọng kiếm tìm và chinh phục của con người. Với tri thức, con người cũng đủ sức mộng mơ trong toàn cầu ý thức của mình. Thi ca, âm nhạc, hội họa, kiến trúc,… là những sản phẩm tuyệt vời của tri thức mà chỉ loài người mới sở hữu và thưởng thức. Vốn tri thức mềm mại ấy đã tăng tâm hồn con người, nhân đạo hóa con người để con người sống hiền hòa hơn, biết yêu chuộng cái đẹp, căm ghét cái xấu và hơn thế nữa cho ta năng lực tư duy và khát khao được tìm tòi, khám phá làm tăng thêm thực chất xã hội và làm phong phú thêm cá tính của mỗi con người. Tri thức giúp chúng ta hoàn thiện mình, dũng cảm và tự tin hơn khi tham gia những hoạt động xã hội. Liệu có hành trang nào dành cho con người cần thiết hơn khi tri thức khi họ dấn thân vào cuộc sống này? Để tiếp cận và đi tới chiếm lĩnh tri thức trong xã hội, trước hết là con người phải biết tự giác học tập. Học tập phải diễn ra đều đặn, trong tương lai và xuyên suốt thế cục người. Học tập ở mọi nơi, mọi lúc và mọi thứ cần thiết. Một triết nhân Hy Lạp cổ đại đã nói như sau “Mỗi người tôi gặp đều có những điểm hay hơn tôi, đáng cho tôi học tập”. Thực tế cũng chứng minh, những người đạt tới đỉnh cao của vinh quang đều có vốn sống, vốn hiểu biết phong phú và nhu cầu cầu thị lớn. Xem Thêm Tổng hợp 8 mẫu Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Sang thu hay nhấtHọc tập kỹ lưỡng và thực hành tỉ mỉ là bí quyết thành công của những nhà khoa học. Mỗi lượng tri thức đều phải được kiểm chứng qua trải nghiệm thực tế mới có thể được khẳng định. Tuy vậy, biết sàng lọc tri thức, lựa chọn lựa cái thích hợp và xác định mức độ tiếp cận, tiếp nhận đúng đắn, hiệu quả là việc làm rất cần thiết. Bởi tri thức là vô hạn còn đời người thì ngắn ngủi, nếu như quá tham lam hoặc mù quáng trong tham vọng con người sẽ lạc lối trong mê cung tri thức ấy, mãi mãi không thể tìm thấy mục tiêu cho thế cục mình. Sức mạnh của tri thức phải được vận dụng vào những việc hữu ích, tạo ra lợi ích, xúc tiến xã hội tiến bộ, tiến tới bảo vệ, giữ gìn và phát triển xã hội loài người. Sức mạnh của tri thức phải sử dụng để bảo vệ chân lí, bảo vệ cuộc sống chung trên trái đất. Sức mạnh của tri thức không phục vụ cho những tham vọng làm thịt chóc, tàn phá, hủy hoại những trị giá. Thế nhưng, không phải lúc nào điều đó cũng được khẳng định. Lịch sử đã phơi bày biết bao nhiêu thảm họa do tri thức gây ra. Nhiều kẻ đã lợi dụng sức mạnh ấy chống lại sự tiến bộ của loài người, hủy hoại, thảm sát loài người để bảo vệ cái lợi ích tư nhân ích kỷ của chúng. Những cuộc đại chiến trên khắp toàn cầu đã để lại cho loài người biết bao đau thương, mất mát. Hai quả bom nguyên tử đã nổ ở Nhật Bản thầm nhắc nhở con người trách nhiệm, tình thương lẫn nhau đồng thời cảnh báo rằng đừng để sức mạnh của tri thức – cái vốn do chúng ta tạo ra – hủy hoại sự sống của chính mình. Những kẻ không chịu hiểu câu nói trên, cố tình trốn tránh, coi việc tích lũy tri thức là thừa, vô dụng thì thế tất sẽ nhận được hậu quả không mong muốn. Còn có những người mới học được chút ít tri thức đã tự coi là đủ, không chịu nỗ lực hoặc chỉ chăm chăm học trong sách vở mà không chịu tìm tòi từ cuộc sống thì trước sau tri thức cũng rơi rớt, trở thành “ếch ngồi đáy giếng”, không thể là sức mạnh. “Tri thức là sức mạnh” là một lời khẳng định mạnh mẽ và cũng là chân lý vĩnh hằng ngày càng được kiểm chứng một cách chắc chắn theo thời gian. Kiên trì học tập, không ngừng học tập là cách tốt nhất để chúng ta có được tri thức và giữ gìn chúng qua thời gian. Không có tri thức thì không có thành công. Tri thức là cái khiến chúng ta nhìn thấy mình đang hiện hữu. Tri thức trong đầu và đạo đức trong tim, thời gian cống hiến để nghiên cứu và lao động thay vì phương thức và lạc thú, đó là cách để trở nên hữu dụng, và nhờ vậy, có được hạnh phúc. Trên đây là dàn ý và văn mẫu nghị luận câu nói của Lê Nin Tri thức là sức mạnh, ai có tri thức người đó có sức mạnh, mong rằng với nhưng nội dung này những em sẽ có ý tưởng và hoàn thiện bài văn của mình nhé, ngoài ra Đọc tài liệu cũng gửi thêm một đoạn văn của một bạn học sinh giỏi về đề tài này mà những em có thể tham khảo Bài văn mẫu 3 Nhà chưng học Đacuyn từng nói khi về già “chưng học không tức là ngừng học”. Trên khắp mặt đất, từ nơi sa mạc tới chỗ tuyết phủ, từ người lớn tới trẻ nhỏ, khi mặt trời lên tới lúc đêm khuya bên đèn, đều có một cuộc hành hương vĩ đại về cội nguồn của tri thức liên tục diễn ra. Bởi vì sao vậy, một lý do thật giản dị “Tri thức là sức mạnh”. Câu nói ngắn gọn nhưng đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng của tri thức. Tri thức, theo nghĩa hẹp, là tri thức tích lũy được về những ngành khác nhau của mỗi người nhờ học tập, rèn luyện và suy nghĩ. Theo nghĩa rộng, tri thức có thể hiểu là vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người,… của nhân loại nói chung. tương tự, tri thức là nguồn sức mạnh trên mọi ngành hoạt động của đời sống con người, đồng thời cũng là sức mạnh xúc tiến sự phát triển của mọi quốc gia, dân tộc trên toàn cầu. Con người chúng ta không phải khi mới xuất hiện đã làm chủ muôn loài. Từ chỗ chỉ là một loài vật nhỏ bé, yếu ớt, hoang dại trong thiên nhiên tới chỗ có thể đứng thẳng được dậy, phóng thích hai chi trước, não phát triển- quá trình tiến hóa và tiến bộ ấy không phải khởi đầu từ những tri thức cổ sơ hay sao. Đó là tri thức sống, tri thức của lao động từ săn bắt, hái lượm, chăn nuôi trồng trọt rồi cải tiến nông cụ, loài người đã biết vượt lên đời sống bầy đàn tách thành bộ lạc, gia đình, họ tộc rồi vương quốc, quốc gia. Quá trình tiến hóa vĩ đại kia có phải tự thân mà có hay do những phản xạ vô điều kiện, khi ta cứ lặp đi lặp lại một việc như cái máy? Hoàn toàn trái lại, loài người chinh phục tự nhiên, phát triển những mối qua hệ xã hội được là nhờ đầu óc của mình “Tôi tư duy tức là tôi tồn tại” Đê những. Không có nhận thức, suy nghĩ, con người sẽ yếu đuối và vô nghĩa không khác gì một “cây sậy”. Nhờ có tri thức mà xã hội con người phát triển và ngày càng văn minh với những phát minh khoa học. Không phải ai sinh ra cũng tự phát minh được ra bóng đèn, tivi, tự khám phá được định luật vạn vật hấp dẫn,…Con người kế thừa thành tựu của tiền nhân để cải thiện điều kiện sống của mình, đồng thời biến những thành tựu ấy thành tiền đề cho những đột phá mới mẻ, to lớn hơn. Qua tri thức, con người có được sức mạnh để cải tạo thực tế. Khi chúng ta chỉ là những con vượn ăn lông ở lỗ trong hang động, có ngờ đâu rằng về sau con người đã được ăn no, mặc ấm, thậm chí ăn sang, mặc mốt, ở trong những tòa nhà chọc trời, đi xe tương đối ra đường, và có một đời sống văn minh với những tiện nghi đầy đủ nhất trong tương lai. Sự khác biệt đó là nhờ sức mạnh của tri thức. Tri thức là nền tảng cho hai cuộc cách mệnh khoa học kĩ thuật vĩ đại của toàn cầu, từ nông cụ thô sơ sử dụng máy tương đối nước, sử dụng điện, năng lượng hạt nhân, năng lượng sinh vật học…Con người không ngừng làm giàu có vốn tri thức của mình để trở nên mạnh mẽ hơn trong cuộc chiến với nghèo đói, lạc hậu, tăm tối, trong công cuộc chinh phục tự nhiên để có cuộc sống sung sướng, đầy đủ hơn. Thần kỳ biết bao, khi ngày xưa ta thờ cúng thần sông, thần suối, giờ ta bắt những con sông làm ra điện, xưa ta “lạy trời mưa xuống”, nay ta sử dụng tên lửa, xua mây, kéo mưa, gọi nắng; xưa ta chạy ma-ra-thôn tới kiệt sức để truyền tin thắng trận, nay chỉ một cú điện thoại hay kết nối internet, một buổi tường thuật trực tiếp, cả toàn cầu đã biết tới những sự kiện, tin tức quan trọng. Sức mạnh tri thức làm con người có thể đảo đổi những trật tự tưởng như nghìn năm bất dịch, làm được bao điều phi thường trong trong cuộc sống. Như khát khao bay lượn đã thành sự từ thực anh em nhà Wright, khát vọng thám hiểm mặt Trăng đã được hiện thực hóa từ phi thuyền Apollo. Bằng sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, con người đã biến những điều tưởng như chỉ có trong tiểu thuyết khoa học giả tưởng thành sự thực. Cho tới bây giờ, loài người vẫn tự hào bởi cuộc đua tới nam cực giữa Scott và Amundsen, cuộc chinh phục đỉnh Everest của Hillary, cuộc hành trình trên biển bằng con tàu Beagle của Darwin, thậm chí cả những vùng đất xa xôi nhất như Đại Tây Dương, Bắc Cực đều đã ghi dấu bước chân con người. Những tuyệt tác nghệ thuật thi ca, nhạc họa, điện ảnh,… cũng là sản phẩm của sự sáng tạo, “sức mạnh tri thức”. Vốn tri thức đa diện ấy đã nâng tâm hồn ta lên, nhân đạo hóa con người để ta sống có trái tim, biết yêu chuộng cái đẹp, căm ghét cái xấu và hơn thế từ những gì được biết được đọc, ta có thêm năng lực tư duy và khát khao được tìm tòi, khám phá làm tăng thêm chất người và làm phong phú thêm cái Tôi cá thể của mỗi người. Mỗi con người ta chỉ giống như một con kiến bé nhỏ nhưng nếu như biết tích lũy góp nhặt tri thức như loài kiến kia thì sẽ có thêm ngày càng nhiều sức mạnh, vốn sống, vốn hiểu biết để đối mặt với những trắc trở, thử thách trong đời. Liệu có hành trang nào dành cho con người khi dấn thân vào cuộc sống khó khăn cần thiết hơn tri thức. Tri thức giúp chúng ta hoàn thiện mình, dũng cảm và tự tin hơn khi tham gia vào những hoạt động xã hội. Để làm giàu vốn tri thức của mình, con người có thể có rất nhiều môi trường để học tập học không chỉ ở trường mà còn qua sách vở, thầy cô, bè bạn, cuộc sống. Một triết nhân Hy Lạp cổ đại đã nói như sau “Mỗi người tôi gặp đều có những điểm hay hơn tôi, đáng cho tôi học tập”. Thực tế cũng chứng minh, những người đạt tới đỉnh cao của vinh quang đều có vốn sống, vốn hiểu biết phong phú và nhu cầu cầu thị lớn. Những kẻ không chịu hiểu câu nói trên, cố tình trốn tránh, coi việc tích lũy tri thức là thừa, vô dụng thì thế tất sẽ nhận được hậu quả không mong muốn. Còn có những người mới học được chút ít tri thức đã tự coi là đủ, không chịu nỗ lực hoặc chỉ chăm chăm học trong sách vở mà không chịu tìm tòi từ cuộc sống thì trước sau tri thức cũng rơi rớt, trở thành “ếch ngồi đáy giếng”, không thể là sức mạnh. nếu như ai đã từng nghe tới khi báu của vua Solomon thì đều biết kho báu đó chính là sách và tri thức. Phải chăng vì vậy mà Salomon trở thành vị vua thông thái nhất mọi thời đại, khiến hậu thế đều phải kính cẩn cúi đầu? “Tri thức là sức mạnh” là một lời khẳng định cũng là chân lý vĩnh hằng ngày càng được kiểm chứng chắc chắn theo thời gian. Bài văn mẫu 4 Để tự tin vững bước trên tuyến đường vào cuộc sống, hành trang quý giá nhất của chúng ta chính là tri thức. Đã có một nhà khoa học người Anh ở thế kỉ XVI – XVII tên là Phơ-răng-xít Bê-cơn phát biểu rằng “Tri thức là sức mạnh”. Câu nói nổi tiếng của ông đã thôi thúc tôi phân tích sức mạnh trong tri thức là gì và bây giờ chúng ta hãy khám phá xem sức mạnh bí mật ấy nhé! Tri thức là những tri thức, hiểu biết mà chúng ta tiếp thu được ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Thế nhưng tri thức không những tồn tại ở đó, nó còn bao gồm cả kinh nghiệm, bài học cuộc sống mà chúng ta tích lũy được khi trải qua một quá trình nào đó trong cuộc sống. Xét trên nhiều phương diện, trên mọi ngành của đời sống thì tri thức là sức mạnh quan trọng nhất mà mỗi người cần trang bị cho mình như một vũ khí để đấu tranh trên mặt trận tri thức. Để minh chứng cho việc xem tri thức là sức mạnh, chúng ta hãy lật lại những trang sử sách hào hùng của dân tộc Việt Nam. Từ một nước An Nam bé nhỏ trải qua một nghìn năm đô hộ dưới tay của giặc Tàu, sắp một trăm năm bị áp bức, bóc lột bởi bọn thực dân Pháp, hai mươi mốt năm Mỹ thay chân cho Pháp. Nước ta đã đấu tranh giành lại độc lập bằng chính sức mạnh kết đoàn, bằng chính sức mạnh tri thức của toàn thể dân tộc Việt Nam. Và vị tướng then chốt nắm giữ toàn bộ sức mạnh tri thức không ai khác đó là vị tướng tài tình, sáng suốt của dân tộc, chủ toạ Hồ Chí Minh. Ra đi với hai bàn trắng tay và trở về sau ba mươi năm bôn ba nước ngoài, Người đã trang bị cho mình một kho tàng tri thức để đưa dân tộc ta thoát khỏi ách đô hộ của bọn thực dân tàn ác. Người dân Việt Nam vẫn còn nhớ như in ngày mà Người đã tuyên bố hùng hồn trước toàn thể quốc dân và toàn cầu “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả ý thức và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Chính nhờ sự thông thái, hiểu biết sâu rộng của Người, đã dẫn dắt dân tộc Việt Nam đi theo tuyến đường ánh sáng của cách mệnh và giành được độc lập, tự do. Đây là một minh chứng vàng cho câu nói “Tri thức là sức mạnh”. không những thế, chúng ta không thể không nói tới vấn đề thiếu hụt tri thức vẫn còn luôn tồn tại trong xã hội. nếu như một người thiếu tri thức, thiếu trang bị kĩ năng sống cho mình thì khi bước ra đời, họ sẽ bị thua thiệt về mọi mặt, mọi ngành trong cuộc sống. Cho một ví dụ đơn thuần như câu ngạn ngữ “Ếch ngồi đáy giếng”. nếu như như con ếch suốt ngày chỉ ngồi dưới đáy giếng thì làm sao nó có thể biết được trên đáy giếng còn có bao nhiêu điều thú vị và tốt đẹp. Tri thức là vốn hiểu biết không bao giờ cạn kiệt. Nó giúp chúng ta tự tin hơn trong giao tiếp, tinh thông về cuộc sống…Bản thân tôi luôn nỗ lực rút ra những kinh nghiệm, những bài học quý giá từ sách vở, từ cuộc sống xung quanh mình. Vì tận sâu trong tôi luôn ghi nhớ rằng, đó chính là hành trang quan trọng nhất để tôi vững bước vào đời. Và tôi mong rằng những bạn cũng như thế, đừng bao giờ trì hoãn việc học dù chỉ là một giây! Bài văn mẫu 5 Trong bất kì xã hội hay thời kỳ nào thì vai trò của trí thức đều vô cùng quan trọng. Tri thức là một nhân tố vô cùng thiết yếu tạo nên sự giàu mạnh của một quốc gia, dân tộc, là nền tảng cho sự phát triển. Đặc biệt, trong xã hội ngày nay, tri thức thực sự ngày càng khẳng định được vai trò lớn của mình đối với đời sống con người. Vậy tri thức là gì? Tri thức là khái niệm chỉ những hiểu biết về khoa học, văn học, lịch sử, đời sống xã hội mà con người chiếm lĩnh được. Là những hiểu biết của nhân loại được đúc kết quả hàng trăm thế kỷ phát triển từ thời xa xưa tới ngày nay. Vốn trí thức của nhân loại là vô bờ bến như những đại dương mênh mông nước, dồi dào sự sinh sôi và phát triển. Về chính trị, đối với mỗi quốc gia, nguồn nhân lực có tri thức dồi dào luôn là niềm tự hào và tạo nên sức mạnh lớn. Ngày xưa, tổ tiên ta đã có biết bao hào kiệt tài năng với tài tình thao lược, võ giỏi, văn hay. Bởi vậy mà ta lực lượng yếu vẫn thắng địch giành lại độc lập cho dân là nhờ vào trí, với mưu lược, vào những chiến thuật khôn ngoan của những vị minh quân biết nhìn xa trông rộng, hiểu thế thời, biết địch, biết ta, trăm trận trăm thắng. Xã hội ngày nay, khi quốc gia được thái bình, nền chính trị cần phải được xây dựng vững mạnh, quân đội phải được thao luyện, phải biết vạch ra những chiến lược trong tương lai. tương tự, quốc gia cần có những người có tài năng và đức độ, hệ thống của nhà nước phải là những cán bộ nòng cốt tài năng, có năng lực thực sự với nguồn tri thức và sức tinh thông lớn để lãnh đạo quốc gia. Tức là những người tài năng nhất, giỏi giang nhất là những người có một tầm hiểu biết rộng, có vốn trí thức lớn để phục vụ quốc gia, phục vụ nhân dân, lo cho dân, lo cho nước. Về kinh tế, tri thức giữ vai trò vô cùng lớn, đặc biệt là trong nền kinh tế tri thức hòa chung trong sự phát triển cả toàn cầu. Tri thức trở thành một nguồn nhân tố quan trọng, chất xám trở thành ngưỡng năng lượng đưa quốc gia đi lên, sánh vai với cường quốc năm châu. những ngành công nghệ thông tin ngày càng phát triển thay thế cho những ngành công nghiệp nặng, lấy sức lao động của con người làm hàng hoá. Những nhân tài về công nghệ thông tin, những bằng sáng chế độc quyền hay những sáng chế khoa học xúc tiến sự phát triển của khoa học sản xuất ra đời đều được sáng tạo nhờ tri thức trên những nguyên lý cơ bản nhất. Đối với xã hội, văn hoá giáo dục, tri thức cũng góp tiếng nói của mình vào sự ổn định phát triển. Một quốc gia có người dân đạt trình độ cao về trí thức thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ ít đi, mức sống của người dân được cải thiện hơn, con người được hạnh phúc hơn. Xã hội ổn định, không bị những tệ nạn ma túy hay vấn nạn cướp bóc, trộm cướp cũng được hạn chế hơn, nhờ vậy mà quốc gia trở nên văn minh và giàu đẹp hơn. Tri thức càng được coi trọng thì nền giáo dục càng được chú trọng lên hàng đầu, góp phần xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn và phân phối được cho quốc gia những nhân tài đưa quốc gia ngày càng vững mạnh hơn, góp phần tăng vị thế trên toàn cầu. Đối với mỗi người, tri thức lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Không có ai không học mà lại thành tài cả. Tất cả mỗi người muốn có cuộc sống đủ đầy, muốn tăng chất lượng đời sống và muốn sống có ích đều phải học tập. Bởi trí thức mang tới cho ta những hiểu biết thuộc thực chất của những hiện tượng đời sống, giúp ta phân tích sâu về nguồn cội, về quá trình tiến hoá và cả những phát minh vĩ đại trên toàn cầu. Tri thức đưa ta tới những vùng trời mới của sư hiểu biết, thôi thúc ta khám phá , sáng tạo ra những cái mới cái hay. Tri thức giúp bản thân ngày càng hoàn thiện hơn, biết lựa chọn lựa những tinh hoa để tiếp nhận, rời xa những xấu xa, ích kỷ, nhỏ nhen tầm thường trong cuộc sống, biết “gạn đục khơi trong”, biết yêu thương nhiều hơn. Tri thức còn là bản lề để mỗi người nỗ lực cho tương lai, là nền tảng vững chắc để phát triển trí tuệ và kỹ năng thực hành, là ngọn đèn soi sáng trong đêm tối, là hành trang dẫn lối ta vào đời. Có thể thấy, thiếu tri thức là một lỗ hổng vô cùng lớn. Vậy mà, trên thực tế, ta vẫn thấy nhiều bạn trẻ chỉ miệt mài ăn chơi, học đòi mà không học hành. Một số bạn thì có lối suy nghĩ rằng không học vẫn có thể thành công, theo mình đây là một cách nghĩ sai phép. Mọi tuyến đường đi tới thành công đều thông qua học tập, không có học tập không có thành tựu. Có lý thuyết vững chắc mới có thực hành, có học mới thành tài được. Vì vậy, chúng ta là những người trẻ, những hy vọng tương lai của nước nhà, cần hiểu được tầm quan trọng của trí thức, nỗ lực học tập thật giỏi, trau dồi, rèn luyện cả đạo đức, tri thức và sức khỏe của bản thân mình để phát triển một cách toàn diện. Biết nuôi dưỡng lý tưởng cao đẹp, những ước mơ lớn lao, vượt khỏi những ham mê thông thường hay những nhỏ nhen ích kỷ, những trắc trở của thực tiễn đời sống để vươn lên học tập. “Tri thức là sức mạnh”, hãy trau dồi tri thức để mang tới sức mạnh, lợi thế cho chính mình, cho quốc gia, dân tộc mình. Hãy là một vì sao nhấp nhánh tài năng, bản lĩnh và một trái tim đẹp. Bài văn mẫu 6 Trên đời không gì vĩ đại bằng con người, trong con người không gì vĩ đại bằng tri thức. Chính nhờ việc biết tích lũy tri thức qua hàng trăm triệu năm, không ngừng sàng lọc và bồi tích nó, con người đã từng bước thống trị và làm thay đổi toàn cầu này. Khẳng định sức mạnh của tri thức, Lênin nói rằng “Tri thức là sức mạnh; ai có tri thức, người đó có sức mạnh”. Tri thức là toàn bộ hiểu biết của con người từ xưa tới nay về toàn cầu xung quanh, ghi được chép bằng văn tự vào trong sách vở, được truyền tụng từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hiểu đơn thuần, tri thức là những dữ kiện, thông tin, sự mô tả hay kĩ năng có được nhờ trải nghiệm hay thông qua giáo dục. Tri thức đã xuất hiện từ rất lâu và nó luôn tồn tại, phát triển song song cùng với con người. Từ một con vượn như hàng nghìn loài động vật khác, ta dần tích lũy kĩ năng, nhận thức để hái lượm rồi săn bắt, để tạo ra lửa rồi dao kéo. Từ việc thờ cúng thần sông, thần núi, ta đã biến nó trở thành những nhà máy thủy điện phục vụ cho đời sống con người. Nhờ sức mạnh của tri thức, nhân loại ngày nay đã có thể bay như loài chim, hô mưa gọi gió, tới những vùng đất xa xôi hay thậm chí là du hành ra vũ trụ, những điều mà khi xưa được xếp vào trong giả tưởng. toàn cầu ngày càng phát triển, kho tàng tri thức ngày một dâng lên. nếu như không muốn là thành phần thụt lùi, nếu như không muốn trở thành “vượn cổ” trong một toàn cầu văn minh, chúng ta không còn tuyến đường nào khác ngoài việc học, trau dồi tri thức, tích lũy kinh nghiệm. Để từ đó có thể hòa nhập với toàn cầu. Hầu hết những quốc gia ngày nay đều hiểu rõ về trị giá của tri thức. “Đưa giáo dục lên hàng đầu” là khẩu hiệu của mỗi quốc gia. Vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh từng nói “ non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có thể sánh vai với những cường quốc năm châu được hay không, đó là nhờ vào phần lớn công học tập của những cháu.” Giáo dục trong nhà trường là bước trước hết đưa con người tới sắp hơn với tri thức, giúp con người hiểu rõ tầm quan trọng mà tri thức mang lại. Thực trạng hiện này, nhìn chung những học sinh sinh viên trên mọi miền quốc gia đã có cài nhìn đúng đắn về trị giá của tri thức. những bạn học với niềm say mê về tri thức nhân loại. Tích cực tìm tòi tham khảo, không ngừng trau dồi tri thức, kĩ năng ở nhiều ngành. Một thế hệ học sinh sinh viên năng động, sáng tạo là hình ảnh chúng ta có thể thấy được ở những trường học ngày nay. không những thế cũng không ít thanh thiếu niên có cái nhìn méo mó, đánh giá sai về sức mạnh của tri thức. Họ học hành chống đối, xem việc tích lũy tri thức là việc làm không cần thiết. Ngoài ra còn một số thành phần có cái nhìn hạn hẹp, đề cao trị giá đồng tiền mà quên đi tầm quan trọng mà học vấn mang lại. “Học để thi”, “học để có tấm bằng đẹp”, “học để có được một công việc nhàn hạ sau này” là những câu nói của không ít những bạn học sinh, thậm chí là một số thầy cô trong nhà trường. Chính vì vậy mà khi ra trường, khi có được một công việc ổn định, họ đã quên đi tri thức, quên đi việc mình vẫn cần phải học, vẫn cần đọc và trau dồi tri thức. Vì tri thức là vô tận. ngừng việc học tức là chúng ta đã ngừng phát triển bản thân. ngừng việc học tức là chúng ta đang thụt lùi so với vòng xoay của toàn cầu. trị giá của tri thức là điều chúng ta không cần phải bàn cải. Tuy nhiên, tiếp nhận tri thức thế nào và vận dụng chúng ra làm sao không phải bất kì một ai cũng biết. Đừng biến bản thân thành “ếch ngồi đáy giếng”, tự cao tự đại khi sở hữu được một phần tri thức nhỏ bé. Lĩnh hội tri thức là một chuyện, nhân biết và đưa nó vào đời sống lại là một hành trình khác. Khoảng cách xa nhất là khoảng cách từ bộ não tới cánh tay của mình. Hãy là một người thông thái, biết trau dồi tri thức và rèn luyện chúng mỗi ngày. Chắc rằng tri thức sẽ tô vẽ lên cuộc sống của bạn nhiều điều thú vị. Bởi tri thức là sức mạnh nên hãy để sức mạnh đó đưa mỗi chúng ta ra xa hơn ranh giới của bản thân mình. Hy vọng những mẫu ” Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh hay nhất ” trên đây GrabHanoi sẽ mang lại cho các bạn đọc những tham khảo hữu ích. Đừng quên theo dõi GrabHanoi để được liên tục cập nhật những bài văn mẫu mới nhất bạn nhé Nguồn Danh mục Văn mẫu lớp 9 Toàn cầu hóa và sản phẩm của nó là xã hội tri thức đang đưa đến một sự biến đổi to lớn trong toàn bộ hệ thống xã hội và đến lượt nó, sự thay đổi ấy cũng đang gây ra những sự đứt đoạn trong trật tự xã hội tại nhiều khu vực trên thế giới. Tại một số quốc gia, nền kinh tế truyền thống vẫn đang tiếp tục mang lại sự công bằng, nhưng tại một số quốc gia khác, hệ thống chính trị đang bị lung lai và tại mọi nước, hệ thống trật tự xã hội được xây dựng trên sự tuân thủ đang bị đặt trong tình trạng chệch hướng. Bài viết này bàn đến viễn cảnh của lý thuyết xã hội học trong thời đại bùng nổ của Công nghệ thông tin IT và cuộc Cách mạng tri thức KR vốn đang là yếu tố thúc đẩy cho sự tái điều chỉnh nhiều giá trị truyền thống và các chuẩn mực trong hành vi của cá nhân cũng như cua tổ chức xã hội. Bài viết cũng cố gắng xây dựng tính hợp thức cho xã hội học và các lý thuyết nền của nó trong ma trận của Xã hội tri thức được xây dựng trên nền của công nghệ thông tin. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free A preview of the PDF is not available ResearchGate has not been able to resolve any citations for this publication. Martin BulmerToo many sociologists in the last quarter of a century have, like Molière’s famous character Monsieur Jourdain, been speaking prose without realising it. Their work has had considerable impact on the practical world, but for much of the time they have been steadfastly denying its usefulness, even in one case going to the lengths of writing a book entitled Why Sociology Does Not Apply Scott and Shore, 1979. Starting from the view that a dominant theme of American sociology has been the argument that knowledge can transform society in obvious, self-evident and desirable ways, Robert Scott and Arnold Shore hold that many sociologists have a mistaken conception of the influence of research on policy. They see a schism opening up between social scientists doing routine disciplinary research and policy researchers doing work on policy questions. Gosta Esping-AndersenABSTRACT This article shows the declining effectiveness of the sociological classics to make sense of the dramatically changing economy and society. However, the various post-something’ analyses of such transformations, especially the post-modern emphases on language and discourse, are also shown to be inadequate. In their place the author advocates the use of various leitmotifs to establish certain constants, in order then to be able to describe and determine various patterns of variance. The article makes various recommendations for future sociology to be empirical and both diachronically and cross-sectionally comparative in order to comprehend those dramatic changes that currently surround us as sociologists. Sociology should establish such constants’ and worry less about being theory-less’.Bruno LatourABSTRACT The contribution of the field of science and technology studies STS to mainstream sociology has so far been slim because of a misunderstanding about what it means to provide a social explanation of a piece of science or of an artefact. The type of explanation possible for religion, art or popular culture no longer works in the case of hard science or technology. This does not mean, it is argued, that science and technology escapes sociological explanation, but that a deep redescription of what is a social explanation is in order. Once this misunderstanding has been clarified, it becomes interesting to measure up the challenge raised by STS to the usual epistemologies social sciences believed necessary for their undertakings. The social sciences imitate the natural sciences in a way that render them unable to profit from the type of objectivity found in the natural sciences. It is argued that by following the STS lead, social sciences may start to imitate the natural sciences in a very different fashion. Once the meanings of social’ and of science’ are reconfigured, the definition of what a social science’ is and what it can do in the political arena is considered. Again it is not by imitating the philosophers of science's ideas of what is a natural science that sociology can be made politically R. FeaginThe world's peoples face daunting challenges in the twenty-first century. While apologists herald the globaliza-tion of capitalism, many people on our planet experience recurring economic exploitation, immiseration, and envi-ronmental crises linked to capitalism's spread. Across the globe social movements continue to raise the issues of social justice and democracy. Given the new century's serious challenges, sociologists need to rediscover their roots in a sociology committed to social justice, to cultivate and extend the long-standing "countersystem" approach to research, to encourage greater self-reflection in sociological analysis, and to re-emphasize the importance of the teaching of soci-ology. Finally, more sociologists should examine the big social questions of this century, including the issues of economic exploitation, social oppression, and the looming environmental crises. And, clearly, more sociologists should engage in the study of alternative social futures, including those of more just and egalitarian soci-eties. Sociologists need to think deeply and imaginatively about sustainable social futures and to aid in building better human societies. WImmanuel WallersteinAnalysis is provided of the roots of sociology and its links with historical optimism. Particular focus is placed by such a sociology upon the origins of modernity and problems of urban disorder. Sociology's golden age was in the immediate postwar period. But since the 1960s, globalization’, the sciences of complexity and cultural studies have transformed the context for sociology especially transforming the so-called two cultures’. The article concludes with some wide-ranging recommendations as to how sociology should be developed into a re-unified, historical social science on a truly global scale.

xã hội tri thức